Nguyễn Sĩ Tộc Phổ tựa (năm 1868)
Dịch và lưu giữ cuốn Phổ tộc họ Nguyễn Sĩ của ông cha xưa. Cuốn sách được bắt đầu khởi ý từ năm Tự Đức năm thứ 21 (năm Mậu Thìn 1868) và đến năm 1906 đã thu thập và chỉnh lý chính thức. Phần biên dịch do cháu Nguyễn Sỹ Khương (đời thứ 11) sao chép, hoán dịch, phú trà Lương Ngọc phụng bút.




NGUYỄN SĨ TỘC PHỔ TỰA
Nước Đại Nam ta Văn Hiến trên ngàn năm, nhưng các đời biên niên ghi sử vẫn còn bỏ sót nhiều chỗ trong cổ Điển quả thật tiếc lắm. Huống nổi chúng ta là kẻ sĩ thứ dân mà muốn tra tìm Tiên tổ thì không thể không khó, nhưng dẫu thế cũng chẳng làm nản lòng kẻ Nhân nghĩa - Người Hiếu Đạo này được vậy. Trong khi đang làm việc tại viện Hàn Lâm, Tôi có một người bạn là Thị Giảng Nguyễn Tín Trọng; người thuộc nhánh thứ Tộc Nguyễn Sĩ ở Xuân Lâm - Nam Đường, thường ngày ông hay nói với tôi rằng: "Tổ tộc nhà ông gốc từ Thanh Hóa mà đến nhưng chưa khảo lục được; Hiện đang là một Vọng tộc; con cháu hưng Thịnh, nhiều đời đều có người học giỏi khoa bảng đỗ đạt". Trong Tộc đó có một người chú, tên là Nguyễn Sĩ Tố ở tại tỉnh Thanh Hóa - huyện Đông Sơn - Tổng Thọ Hạc, Trong một lần chấm thi ông thấy bài của hậu bối tôi (Nguyễn Sĩ Ấn) Mang họ Nguyễn Sĩ nên đã hỏi kỹ về Gia Tộc; thứ đợi tiên tổ, gốc gác phổ chỉ.... và rồi nhận tôi là đồng Tánh (cùng họ), từ đó lập chung Từ Đường Thờ cúng. Lời kể trên lại đúng sự thật của Nguyễn Tín Trọng về đầu đuôi sự chuyện là như vậy đó.
Cũng vào năm đó Mộ phần Tổ tiên của tộc tôi bị rối lạc; may được người khác chỉ giùm, chắc lẽ do cơ trời hòa hợp gặp được sự linh ứng thiêng liêng của Tiên tổ nên đã gia ân phước cho bổn tộc thêm tương lai là vậy. Cũng từ đó các nhánh tộc ở địa phương mỗi một đều sưu tập, hỏi ghi lại lời kể của Trưởng nhánh về từng đời thứ Tiên tổ: Tên Hiệu - Tên Thụy cũng như các sự kiện liên can để viết thành cuốn gia phổ Chánh Tông lần này. Hẳn nhiên phần Tiên tổ quá cố được tu bổ theo đóng góp của Tín Trọng vậy.
Tự Đức năm Đinh Mão (1867), em ruột của tôi Nguyễn Sĩ Rằng (Lạng) tiếp trúng Tú Tài- về quê Thanh Hóa bái yết Tiên Tổ, nhân tiện đến thăm tôi tại sở Lỵ ở Nam Định, có xin tôi thuật lại lời kể của Tín Trọng để đối chứng ghi vào Phổ Tộc hòng không quên ơn của những người có chí như Tín Trọng nên lấy đó làm Tựa Đề của Tộc Phổ.
Tự Đức năm thứ 21, năm Mậu Thìn, tháng 5, Nhật dã.
(Ngày tốt tháng năm năm mậu thìn 1868)
Hồng Lô Tự Thiếu Khanh Biện lý hình bộ
Sự vụ Phan Hoè Am chỉ ký
TĂNG TU TỘC PHỔ TỰ
(bổ sung thêm cho lời tựa của tộc phổ)
Hễ là người phải có Tộc, Tộc phải có Tộc Phổ. Phổ là để ghi chép rõ từng đời thế thứ - quan hàm chức tước - Tên tuổi - Mộ phần - Kỵ nhật của từ Tiên Tổ đến tận vô cùng. Cũng giống như thế phổ của họ Lục; phổ Thặng của Họ Dương, Tiếc thay phổ điệp của Tộc Nguyễn Sĩ chúng ta đã bị thất truyền. Được nghe kể lại: Tiên Tổ chúng tôi là người Thanh Hóa; còn từ chi nào ra, châu nào lại - đời nào đăng bộ ở bổn ấp đều không rõ.
Vào năm Minh Mệnh Đinh Dậu 1837; đời cha ông - bác chú tôi được giáo Thụ bổn phủ Anh Sơn
Nguyễn Sĩ Tố là người gốc tỉnh Thanh Hóa - huyện Đông Sơn - tổng Thọ Hạc thuộc tộc Nguyễn Sĩ đã đến nhận là đồng Tánh (cùng tộc). Qua đó biết được Tiên Tổ tôi có người từ Thanh Hoá đến ở Hoan Châu (Nghệ An) đã có lập Phổ Chí. Thời ông cha cùng bác chú chúng tôi có đến nhà Trưởng gia để xem nhận tên húy - tên Thụy đời lớp trước trong phổ đó để gộp chép chung làm 1 Tộc phổ, Trong khi việc chưa làm xong thì liền nhận hung tin: Hương Hội Sĩ Vu - Ngoại Giáo Thụ Nguyễn Sĩ Mỗ (Chấn) tạ thế, cha của tôi ở Kinh Thành chưa đây 10 năm thì mất.
Tự Đức năm Đinh Mão 1867 chú Tôi (Sĩ Rằng) tiếp trúng Tú tài liền đến Từ Đường ở Thanh Hoá bái yết và gặp hỏi 2 con Trưởng - Thứ của ông Giáo Thụ (Sĩ Tố) về việc phổ biên lưu lạc - thất truyền sai trật như thế nào để dẫn đến tôn nghiêm phép nhà hư hoại đến nỗi Phổ Điệp của gia thế Trăm Đời đã mất mát quái lạ như kia. Xưa truyền, phả họ Bành không thể phân tích nổi, phả Họ Cảnh không thể thấu suốt hết còn Tộc phả Tộc Tôi thì vậy làm sao con hiếu cháu hiền không phải ngậm ngùi cho được. Muốn viết lại Phổ chỉ trước tiên phải quyết tâm sưu tầm ghi chép, việc đang giở chưa xong phần thì chi nhỏ kém cỏi, chi lớn bận bịu nơi quan trường, Tôi đang lo ngay ngáy chưa nối chí nghiệp được ông cha mà nay đã ngoài 57 tuổi, để báo đáp chí nguyện tiền nhân buổi sinh thời thì nay phải xem xét ghi lại: tên Thụy, tên Hiệu đời thứ lớp lang của tiên tổ để gom viết thành một phổ Tộc theo từng đời thứ rõ rành như: Đời thứ 1, Đời thứ 2;... lớn theo lớn, nhỏ theo nhỏ để dễ bề tiếp ghi phần tên hiệu của ông....., bà... như khi còn sống xưng hô. Qua đây tiện thể nhắc nhở luôn con cháu phải ghi nhớ 2 lễ Tế Xuân - Tế thu tại Từ Đường. phần cúng tế kể từ đời ông bà được biết rõ trở xuống, Tôn đời thứ nhất là Tiên Tổ thứ tự cho đến đời ông nội của từng người theo đúng với từng trưởng - thứ chi tên Tự - Quan hàm - ngày tháng giỗ chạp - Mộ quynh tại xứ.... Hết thảy ghi lại kiểm tra kỹ xem đã đúng theo trình tự hệ thống, sao cho trên liền đúng Tông - dưới khớp hợp hệ, cốt rõ tận gốc; mạch lạc thấu nguồn, lời văn chất phác, ý nghĩa rạch ròi bao hàm được kết những ý trên, quả nhiên Tổ Tiên ta nhiều đời truyền nối những tinh hoa là hằng mong cho con Hiếu - cháu Hiền mai sau ngày thêm phần rạng rỡ. Đã thế tại sao hôm nay chúng ta lại không làm giống y như Tổ tiên ta vậy! Trên đây là phần thêm lời Tựa.
Thành Thái năm thứ 18, Tuế thứ Bính Ngọ, Tháng 11, thượng cán.
(Ngày đầu Tuần tháng 11, năm Bính Ngọ 1906)
Thứ Huyền Tôn Tiết huân mộc tái bái thư (cháu Huyền nhánh thứ tên Tiết, tắm gội khấn lạy viết chữ)
THÔNG LỄ
Chép theo Chu Văn Công Gia Lễ, phụ biên các điều để tiện tra khảo.
* Từ Đường: Ngày xưa gọi là Miếu; trong sách xưa không có từ "Từ Đường", Nay các bậc sĩ -thứ dân khiêm tốn cũng có chỗ không dám gọi "Miếu" nên đặt dùng tên “Từ Đường".
* Quân Tử Tướng Dinh thất tiên lập Từ Đường Ư Chánh tẩm chi sự: Trong Dinh thất của các bậc tướng sĩ quân tử trước tiên lập Từ Đường nơi giữa Dinh để thờ. Chú giải: Từ Đường phải theo. Kiểu hoặc 3 gian hoặc 1 gian để thờ, gian giữa (chánh tẩm) gọi là Từ Đường.
* Vi tử khám: trong Từ Đường lập 4 cái khám để thờ bài vị thế đời tiên tổ tương đương theo 4 cấp: CAO – TẰNG – TỔ - KHẢO, và Từ Đường cũng là nơi để chuông trống cùng các đồ lễ dùng trong việc cúng tế.
* THÔNG LỄ DƯ CHÚ: Hễ là Từ Đường thì cũng được xem như là nhà của con cháu sở tại chớ có chia tách phái chi. Đã là nhà thì phải theo khuôn chế nhất định: Mặt trước hướng Nam; mặt sau lưng hướng Bắc, bên trái là Đông, bên phải là Tây. Mặt trước mặt sau phải làm y như vậy.

* TỪ ĐƯỜNG CHẾ THỨC: Cách làm từ Đường, theo kiểu 3 gian thì bên ngoài mặt trước làm trung Môn (cửa giữa), Ngoài 2 bên cửa giữa có 2 thềm, mỗi thềm 3 cấp, thềm phía Đông gọi là Giáng Giai, thềm phía Tây là Tây Giai, phía dưới thềm tùy theo đất rộng hẹp mà làm mái che, ngày nay thường nới rộng nơi người nhà tự lập (đứng hầu cúng) cũng vừa được để Di thư vừa được để đồ vật cúng tế, phía Đông bên cạnh sau nhà Từ Đường bố trí để xây nhà Trù (bếp) trong tường vách cách biệt với cửa ngoài. Trên cửa ngoài thường để biển hiệu. Còn nếu như nhà nghèo - đất chật thì Từ Đường chỉ làm 1 gian, không có nhà Trù, nhà kho, Đông - Tây Tường Vách, chỉ cần đặt 2 Cái Tủ; Tủ phía Tây dùng đựng Di thư - Áo lễ, Tủ phía Đông dùng đựng đồ vật cúng tế.
* TỦ KHÁM: 4 bộ khám tượng trưng cho 4 đời: CAO – TẰNG - TỔ - KHẢO, mồi đời 1 khám, trong khám đặt 1 cái hòm (Tráp gỗ), trong hòm để Vị chủ (Thần Chủ- bài vị), trước khám trên treo 1 bức rèm, dưới đặt 1 bàn dài. Đó là quy lệ đầy đủ. Khám đặt về phía Tây để cao nhất, trước mỗi khám đặt 1 bàn có 2 cấp, bên ngoài lối thông đặt thương án.
* Thân chi vô hậu giả dĩ kỳ ban phụ: Người thân vô hậu được phụ thờ theo ban: ông bà Nội bác; ông bà nội chú được phụ thờ theo ông bà Cao Tổ, vợ chồng bác - vợ chồng chú phụ thờ theo ông cố, vợ hoặc anh-em hoặc vợ của anh - vợ của em được phụ thờ theo ông bà Nội, con cháu được phụ thờ theo cha bên phía Tây.
* Thứ Mẫu bất khả phụ từ Đường: Mẹ thứ không thể thờ tại Từ Đường mà nên thờ tại nhà riêng của con trai người đó, nếu mẹ lớn không có con mà con trai của mẹ thứ đó đang làm chủ Tông Tự thì được thờ mẹ lớn.
* Chúc văn: Văn cúng từ đời ông Cao ông Cố ông Nội - Cha Mẹ trở lên đều thêm chữ “HIỂN”, người có quan tước thì thêm quan tước, người không quan tước thì vợ xưng chồng là phu nhân, chồng xưng vợ là phụ nhân. Đó là cách xưng hô của thứ dân. Nay định lại phải là bậc nhị phẩm mới được phong phu nhân còn theo tục thường thì xưng nhụ nhân.
* Hiếu tự xưng: Xưng theo chữ "Hiếu"; xem theo sách "Thông Lễ Tông Tử", với đời ông bà Hiển cao Tổ ta xưng mình là "Hiếu Huyền Tôn", với đời ông bà cố thì tự xưng mình là "Hiếu Tằng Tôn", với đời ông bà nội thì tự xưng mình là Hiếu Tôn, với đời cha mẹ thì tự xưng mình là "Hiếu Tử. Người được phong Quan tước thì xưng theo Quan tước, người không được phong quan tước thì xưng theo lúc còn sống gọi hiệu là....... Thêm chữ phủ Quân. Hễ không xưng theo Tông Tử thì bỏ chữ "Hiếu" (Tông Tử gọi con trai lớn của bà mẹ cả là Trưởng Tử).
* Chủ tế: sách Lã Thị viết phàm việc cúng tế đều do con cháu chánh Tông đảm trách. Tông Tử bảo con Trưởng đích phải làm chủ Tế của Lễ Tế Cha, Tế lễ đời ông nội thì cháu Trưởng làm chủ Tế, Tế đời Ông Cao thì cháu Huyền làm chủ tế, phàm các lễ Tế chủ tế phải y như quy củ, trừ trường hợp chủ bệnh tật hoặc đi xa thì thay người thứ làm chủ lễ tế.
* Tông pháp khảo chứng: 1 đại Tông 4 tiểu Tông được gọi là đại Tông khi có 5 Tông liên kế xưng hô. Người con thứ bản thân thờ 4 Tông, có Đại Tông thì thờ 5 tông, xưng gọi Cha là “Nễ”.
* Đại Truyền Biệt Tử Vi Tổ. Đứng đầu Biệt Tử là những Chư hầu - Đàn em không cùng mẹ chánh với Trưởng đích. Thủy Tổ là ông tổ riêng của một dòng con cháu.
* Kế biệt vi tông: Tiếp theo Tổ là tông, gọi các người con liền kế với người con Trưởng của dòng đích là Tông trăm đời không đổi.
* Kế Nễ giả vi Tiểu Tông: Tiếp theo các Nễ là một Tiểu tông, gọi các người con thứ xa đời ngang liền kế có cùng Cha- Anh - Em với người Trưởng Tông là Tiểu Tông.
* Hữu Bách Thế Bất Thiên chi Tông: Tông liền kế với các Tiểu Tông là Đại Tông.
* Hưu Ngũ Thế Tắc Thiên Chi Tông: Đến Đời thứ 5 thì Tông phải thay đổi. Đại Tông chỉ 1, tiểu Tông có 4; Các tiểu Tông kế Nễ phải là Tông có cùng Cha-anh-em, các tiểu Tông có cùng đời ông Nội là anh em với nhau thì gọi là Tông Đồng Đường Huynh Đệ, Các tiểu Tông có cùng đời ông cố là anh em với nhau thì gọi là Tông Tái tòng Huynh Đệ, các tiểu Tông có cùng đời ông Cao là anh em với nhau thì gọi là Tông Tam tòng Huynh Đệ, cho đến các Tông Tứ tòng cũng đều tương tự như vậy cả, bởi nên gọi 5 đời ắt đối là Tiểu Tông vậy.
* Đại Tông tiểu Tông đồ:
- Tổ truyền đến cháu gọi là kế Tổ tiểu tông; thống tồng Huynh Đệ - chủ tế miếu Tổ,
-Tổ truyền đến cháu cố là 5 đời chắc đổi.
- Ông cố truyền đến cháu Huyền là kế Tằng -Tổ tiểu tông - Thống tái tông Huynh Đệ - làm chủ tế miếu Tằng Tổ.
- Ông cố Truyền đến đời cháu của mình gọi là 5 đời chắc đổi.
- Cao Tổ truyền đến cháu Huyền là kế caoTổ Tiểu Tông - thống Tam Tông Huynh đệ - chủ Tế miếu Cao Tổ.
- ông Cao Truyền đến đời con của mình là 5 đời chắc đổi.
- Thủy Tổ: chỉ có những người đã tách riêng từ ban đầu mà được phong tước thì mới gọi là Thuỷ Tổ; Do dòng con trưởng kế nối - con cháu đời đời. Đó gọi là Tông Lớn; Thống lãnh. Toàn Tộc - chủ tế mộ Thủy Tổ - Trăm đời không đổi.
Do các gia đình không chung cùng chỗ quy hợp, nên hay cùng lấy một điểm tương đồng cho sự nhập gia mà nói rằng: chỉ có những người đã tách riêng từ ban đầu mà được phong Tước thì mới được gọi là Thuỷ tổ. Chuẩn theo nguyên tắc xưa về việc chỉ được lấy con cháu dòng Trưởng xa đời của Thủy Tổ để kế thừa đứng đầu các Tông, điều đó tuy không phải là phép tắc nhất định của thời xưa nhưng quả thật là ý của cổ nhân vậy.
* Đại Truyền Vân Biệt Tử vi Tổ: Lời chính thức nhất là chỉ có khi nào truyền đến con cháu xa đời thì mới gọi là Tổ, Biệt tử là cách gọi chung cho những con cháu xa đời cùng đàn em của dồng trưởng đích. Người được gọi là Tổ chỉ từ khi có hậu thế. Có thể gọi người Tổ của các con cháu xa đời đó là Thuỷ Tổ chỉ khi các con cháu xa đời đó có người được lập làm khanh Đại phu.
* Kế biệt vi tông, gọi người con dòng Trưởng đương kế đời thừa hành của tộc là Tông không Đổi.
* Kế Nễ giả vi Tiểu Tông: xưng gọi người con trường xa đời của dòng thứ do người thứ sinh họ và các anh em cùng nối đời là Tiêu Tông.
* Ngũ Thế Tắc Thiên Giả: Năm đời ắt phải Thay đổi. Trên từ đời Cao Tổ, dưới đến đời con của cháu Tằng - cháu Huyền, khi miếu thờ Cao Tổ hư mà không phục lại, điều đó gọi là lập riêng Tông, Tuy nhiên con cháu xa đời và nhiều người trong Tộc từ đời Cao Tổ Tam Tòng là một Tông, Đến đời thứ 5 - Kế thế ông Cố tổ cùng Huynh Đệ Tái Tông lập Tông. Đến đời cháu thứ 5 – kế thế ông nội cùng Đồng Đường Huynh Đệ lập tông. Đến đời cháu cố thứ 5 hoặc người kế xưng cùng với anh em gần lập Tông. Đến đời cháu Huyền Tôn thứ 5 đều từ ông Tổ Tiểu Tông trở xuống mà nói thì lại đúng là Đại tông, không còn tiểu Tông đều do dòng chánh không lập Tiểu Tông, Nếu có Tiểu tông mà không có Đại Tông là do không có dòng Đích (chánh) nên không lập Đại Tông
* Tiên Tổ: Tông cao tổ liền kế thuỷ tổ là Tông được kế cúng Thủy Tổ. Từ sơ Tổ trở xuống, Tông Kế Cao Tổ phải Từ Tiên tổ trở xuống. Đến ngày Đông Chí phải cúng Thủy Tổ, ngày Lập xuân phải cúng Tiên Tổ. Do vậy nên Trình tử mới nói, Thuỷ Tổ là rường cột từ ban sơ của tổ dân sinh, Đông chí nhất Dương là Tượng khởi đầu sinh sôi của loài giống mà nên Tế Thuỷ tổ, có người hỏi về chuyện tế Thủy tổ, ông Chu Tử nói rằng: "Ngày xưa không như bây giờ đâu Y Xuyên tiên sinh, việc gì cũng từ nghĩa mà ra, mỗi ý nghĩ đều tựa hào không dám”, Về việc cúng tế ta xem lại trong thiên tế lễ có đủ các nghi tiết, chắc việc cúng tế của Tiên tổ ngày xưa cũng đáng nên làm. Nay nghĩ người nhà cùng ở chung chỗ, mới chỉ 4 đời mà chẳng cúng kính, việc cúng kính ấy là để hòa hợp các tộc ở chung cùng thờ phụng Tiên Tổ, việc cúng tế đâu phải khó khăn mà là cơ hội tụ sum vầy của những người có nghĩa - có tâm hiếu hưởng. Nên giữ ngày trong tiết lập xuân thiết lễ nơi Từ Đường để cúng ông. bà Tiên tổ trở xuống: ông thì Thiết bên trái bà thì thiết bên phải, chìa làm 2 lệ mỗi năm đều cũng y như vậy để cho tộc họ hòa hợp, đời đời chẳng xa, ngày thêm tốt tươi sum vậy, cốt gộp nhơn tâm, cùng theo chí lớn, kính tông mục Tộc, mãi được bên lâu.
* Lâp xuân tế Tiên tổ: Trình Tử viết Rằng: " Các đời tổ từ Sơ Tổ trở xuống - Cao tổ trở lên nên được Tế trong tiết lập xuân vì thời gian đó là Tượng quẻ khởi sinh của các loài sinh vật - Nên tế chỉ". Dẫn theo gia lễ của Trình Tử gọi việc tế các tổ từ sơ tố trở xuống – Cao Tổ trở lên, còn đời từ Cao Tổ về sau thì tế thường tứ thời. Người đời nay không tế như xưa mà gom tế luôn cả 4 đời từ: Cao – Tằng – Tổ - Khảo như vậy cũng được. Việc làm cốt yếu là để hợp tộc sum hòa, còn khi thiết lễ cúng thì con cháu vái lạy qua loa, lúc ông cha còn sống thì không phân biệt rõ đời thứ gần xa, chỉ gộp cúng hưởng chung 1 nhà. Gộp tế chung người mất như vậy thì đâu thể cho là sum vầy người sống được. Ngày lập Xuân tế Tiên Tổ - thiết bài vị, dùng giấy viết Vị Hiệu như Thần chủ của các vị Tiên tổ khảo tỷ, lấy đời cha của ông Cao Tổ là đời thứ 5, tính ngược lên là đời thứ 6, đời thứ 7, tùy theo chỗ biết của mình mà viết hoặc lấy ông khởi đầu chuyển đời làm tổ hoặc lấy ông khởi gia làm tổ, Trước Cao Tổ 1 đời là Tiên Tổ. thường đặt bài vị Tổ bên trong - hướng Nam - Sau tấm bấc chướng, trước mặt đặt 1 cái bàn, còn lại những ông bà cha mẹ không có thần chủ thì làm bài vị bằng giấy. Tộc có chủ, lúc tế phải mời làm Chủ Tế, phàm là những người trong thân Tộc lúc tế phải mặc áo lễ dự cúng. Ngày hợp tế chia làm 2 hàng: Tả chiêu - Hữu mục đều cùng nhìn về hướng bắc, đợi khi chủ tế lên từ Đường Thỉnh thần chủ đọc lời cáo rằng: " Từ Dĩ lập Xuân hợp tế Tiên tổ vu chánh tẩm, cảm thỉnh Cao- Tằng - Tổ - khảo tỷ đồng thân Tôn Hiến. Đặt Thần chủ lên mâm khay trang trọng, chủ tế bưng đến giữa nhà, tùy theo cách bố trí riêng biệt mà đặt thần chủ cho đúng Lệ. Sau khi xong phần cáo thỉnh từ thì các ban mới xưng cúng. (Đọc sớ cúng)
* Từ Đường Tục Tiết: Các Tiết lễ theo Tục ở Từ Đường: Nguyên Đán - Thanh Minh - Trùng Ngọ - Thượng Nguyên - Trung nguyên -Trùng Dương - Chạp Tiết - Trừ Tịch - Tuế Thục Hiến Tân. Phàm chủ tế phải kính ái thật lòng, dẫu nghèo cũng được, miễn không bị bệnh tật thì lượng sức tài vật để thực thi nghi lễ.
* Tế lễ khảo chứng: Vương chế hàng thứ nhân Tế lễ tại Tông miếu trong Tẩm Dinh của Đại phu sĩ thì phải dùng trống, còn tế không có Trống gọi là tiến. Do đó có nghĩa con cháu đời sau đừng vì nghèo khó mà Tế không trống lễ, dẫu có ăn thụ lộc cùng tài sản cũng phải tuỳ thời mà liệu chớ đừng cúng mà không có trống lễ.
* Tế dụng mình thuỷ. Theo lễ vận Huyền Tửu tại thất; Huyền Tửu tức là mình thuỷ, nếu lúc không có Rượu thì dùng nước hành lễ. Đời sau cúng tế cũng đặt giống xưa, do trọng đạo cổ kính vậy
* Chu Tử ngữ lục. Trỡ nhục, tiền lụa ngày xưa dùng tế; Nay thay Trỡ nhục bằng mâm cỗ, Tiền lụa bằng Tiền giấy dó, như vậy vừa tiện nghĩ lại vừa giống như lúc còn sống dùng. Triều Thị viết Rằng: "Giấy Tiền khởi thủy do Ân Trưởng, sử Đường thời Vương Dư mới dùng Tế nơi Từ Đường". Nay Nho Gia bắt chước theo Họ Thich (phật) đều bỏ không dùng trong tang tế cho rằng không hợp tự nhiên vì: Đã chết mà còn giết để cũng là bất nhân, đã chết mà còn dùng đồ sống để cúng là vô trí, dùng giấy thay Tiền cùng các đồ chôn theo mà tục gọi là vốn liếng nơi cỏi âm thì thật nực cười. Xem lại việc dùng tiền giấy để thay bạc - lụa tựa như vô hại.
* Thuỷ cơ Tổ. Nay các bậc sĩ - thứ dân cũng có nền móng Tổ, cũng có chỗ để cúng Tế. Chu Tử nói rằng: "Nếu cho rằng cơ đồ Thủy Tổ chỉ còn có mộ, cũng không có văn, Tuy con cháu nối dòng không hiểu hết mà còn giữ cũng được như vậy thì cũng vô hại".
* Mộ tế Thổ Thần. Cúng ở mộ là cúng Thổ Thần, Chu Tử khuyên con viết rằng: " Lễ cúng ở mộ là cúng Thổ Thần, dẫu rằng đã có giảm chế nhưng ta phải thận trọng; Vì Tổ trên thì nên sắm đủ mâm lễ để cúng, chủ tế chớ có làm khác vậy, Ngày nay việc cúng trước Mộ là nhằm ý nhờ thần giúp phần mộ người thân được an ninh; khỏi bị hướng long sát.
* Tam tang niên bất tế: Người mắc tang 3 năm không được cúng. Chu Tử dạy rằng: " Người xưa chịu tang không được mặc áo quần Tuỳ thích, bản thân phải khóc thảm không ngừng, Miệng mồm ăn uống - nói năng phải nên dè xẻn, bởi vì Miếu thờ đầu nguội lạnh nhưng U Minh bên trong vẫn còn chưa yên. Người cư tang ngày nay và xưa khác nhau xa, việc khóc người mất để lại ấn tượng đau thương hoài. phàm các việc làm khi thường nhật đến khi có tang vẫn không kiêng, duy chỉ có việc độc nhất Không nên làm là "Tế sự" (cúng tế ở nơi khác, Do lẽ lo có chỗ không yên ổn, nên thiết nghĩ xử sự theo nghĩa, nhưng khi xét kỹ lại thì thấy mọi việc hết thảy đều hợp với Lễ, nghĩa là không cúng tế (khi đang có tang) là không nghi ngại, nếu có chỗ nào chưa hợp với lý lẽ trên thì xin miễn trách. Việc đau buồn khóc tới khóc lui trước khi có tang là không đúng Lễ, vả lại bỏ việc khóc lóc sau nhi mất là quá giản lược. Tả Truyền Đỗ Dự nói rằng: " qua các Tứ thời tế trong ngày phải mặc áo tang chế mà cũng y như lễ mặc ai nơi Tông Miếu Vậy.
* NGUYỄN SĨ TRƯỞNG TỘC TỪ ĐƯỜNG
LIỆT TIÊN THỤY HIỆU HÚY NHẬT
TRƯỞNG TÔN NGUYỄN SĨ KẾ CHỦ TỰ.
ĐỆ NHẬT ĐỢI TỔ, TIÊN TỔ KHẢO CỔ TÍCH
ĐỆ NHẤT ĐỢI TỔ, TIÊN TỔ TỶ BÀ CỔ TÍCH
ĐỆ NHỊ ĐỢI TỔ, TIÊN TỔ KHẢO ÔNG CỐ VINH.
ĐỆ NHỊ ĐỢI TỔ; TIÊN TỔ TỶ BÀ CỐ VINH
ĐỆ TAM ĐỢI TỔ, TỔ KHẢO ÔNG CỐ HOẠCH
ĐỆ TAM ĐỢI TỔ, TỔ TỶ BÀ CỐ HOẠCH
ĐỆ TỨ ĐỢI TỔ, TỔ KHẢO ÔNG CỐ THƯỜNG
ĐỆ TỨ ĐỢI TỔ, TỔ TỶ BÀ CỐ THƯỜNG
* TỪ ĐƯỜNG XUÂN THU TẾ TIÊN TỔ CHÚC VĂN TIÊN TẢ TỨ VỊ: Khảo gia phủ quân Tiên Linh, Tỷ gia nhụ nhân Tiên linh
- Đệ tam đợi Tổ khảo Tiền viên lý Nguyễn quý công Thụy chất phác phủ quân ông cố Hoạch; lục nguyệt nhị thập lục nhật kỵ (giỗ 26/6).
- Đệ tam đợi Tổ tỷ Tiền viên Lý Nguyễn quý công Chánh Thất Hiệu Từ dung nhụ nhân; bà cố Hoạch; bát nguyệt nhị thập ngũ nhật Kỵ (giỗ 25/8).
- Đệ tứ đợi Tổ khảo Tiền viên lý trùm trưởng lão Nhiêu Nguyễn Quý Công Thụy chơn Trực phủ quân, ông cố Thường; thập nguyệt nhị thập ngũ nhật kỵ (giờ 25/10).
- Đệ tứ đợi Tổ tỷ Tiền viên lý trùm Trưởng Lão Nhiêu. Nguyễn công chánh thất Nguyễn Thị hàng nhất Hiệu Từ Thận nhụ nhân bà Cố Thường; Bát Nguyệt Sơ thập nhật kỵ (giỗ 10/8).
- Đệ ngũ đợi Tổ khảo Tiền viên Lý Trùm Trưởng Đăng Thượng Thọ Nguyễn quý công Thụy thành trực phủ quân ông can Mậu; Thập nhất Nguyệt sơ thập nhật Kỵ (giỗ mùng 10/11).
- Đệ ngũ đợi Tổ tỷ Tiền viên lý Trùm Trưởng Đăng Thượng thọ Nguyễn công chánh thất Nguyễn Thị hàng nhất Hiệu Trinh Thục nhụ nhân bà can Mậu; Thập nguyệt nhị thập nhị nhật ký (giỗ 22/10).
- Tằng Tổ cô húy Nguyễn Thị Quy (con của cố Hoạch) Trùng ngày giỗ ông Khiết, mùng 10/4 -
- Tổ bá Nguyễn Sĩ Hưu, giỗ ngày 22 tháng 8.
- Tăng Tổ bá Tiền Thập Lý Hầu Nguyễn Quý Công Thụy Minh đạt phủ quân, húy Sớm, hiệu ông Bình; giỗ ngày 18/9.
- Tằng Tổ thúc Tiền ưu Binh thị hầu khuông hữu đội bá hộ chức Thụy tựu tài phủ quân Húy Sở, Hiệu ông Khiết - giỗ mùng 10 tháng 4.
- Đệ lục đợi tằng Tổ khảo tiền Lê Triều Tráng Tiết Tướng quân Phó thiên hộ chức tình nghĩa Hầu; Thụy ôn trực phủ quân, Húy Xung, Hiệu Cố Lãng - giỗ mùng 24 tháng 10.
- Tằng Tổ Tỷ Tiền Lê Triều Tráng Tiết Tướng quân phó Thiên Hộ chức Nguyễn công chánh Thất -Nguyễn Thị hàng nhất, Hiệu Từ Mẫn nhụ nhân, Húy Luân – Bà cố Lãng giỗ ngày 25/2.
- Tổ thúc húy… (Con chết trẻ của can mậu), giỗ ngày mùng 10 tháng 12.
- Tổ cô húy Huy (con yểu của Can Mậu) giỗ ngày 24/10.
- Đệ thất đợi Tăng Tổ khảo Tiền ất Dậu khoa Tú Tài Kiêm Bổn xã Điển ước Đăng Kỳ lào Nguyễn Mạnh công, Tự viết Kính, Thụy Trung trực chánh phủ quân ông huý Khâm, giỗ ngày 27/9.
- Tằng Tổ Tỷ Tiền ẤT Đậu Khoa Tú Tài Kiêm bổn xã Điển ước Đăng kỳ lão Nguyễn Công chánh Thất Nguyễn Thị hàng nhất tự Cư Gia, Hiệu Trinh Thục nhụ nhân bà húy Lý, giỗ ngày 27/7.
- Đệ bát đợi Tổ khảo tiền xử sĩ lịch thí Trúng nhị Trường kiêm Đăng Hội Hội trưởng Đăng Kỳ Thọ Nguyễn Bá Thị húy Phùng; Tự Di Bá, Thụy Nhã Trực phủ quân, thọ 75 tuổi, giỗ mùng 7/9.
- Tổ Tỷ Tiền xử sĩ lịch thí Trúng nhị Trường kiêm đăng Hội Hội trưởng Đăng thượng thọ Nguyễn công chánh thất Nguyễn Thị hàng nhất húy Thị Phương, Hiệu Cần mẫn nhụ nhân, Thọ 73 tuổi, giỗ 21/7.
- Đệ cửu đợi Hiển khảo Tiền học đường khóa sình Kỳ thụ bổn thôn phó lý Trưởng Nguyễn Mạnh lang Tự Khả Dĩ, Thụy Hòa Bình phủ quân, húy Hưng. Ngoài 50 tuổi, giỗ ngày 13 tháng 11
-Hiển Tỷ tiền Học Đường khóa sinh Kỳ thụ bổn thôn phó lý Trưởng Đăng Kỳ thọ Nguyễn công chánh Thất Duy Thị hàng quý Hiệu Cần mận nhụ nhân, huý Thị Đệ, ngoài 60 tuổi, giỗ ngày 5/11.
-Tổ cô Nguyễn Thị Nghiệm (con non của van Đồ), giỗ ngày mùng 7 tháng 7.
-Tổ Thúc Nguyễn Sĩ Chiêng (Con non của can Đồ), giỗ ngày 27/10.
-Tổ cô Nguyễn Thị Hâm (Con non của can Đồ) giờ ngày 20 tháng 11.
-Đệ cửu đợi Hiển khảo Sinh hạ: 4 Nam 3 nữ, 3 Nam yểu một (chết trẻ), 1 Nam nối hậu.
+ Đệ nhất: Nguyễn Sĩ Đôn, giỗ mùng 4/10.
+ Đệ nhị: Nguyễn Sĩ Tự, giỗ 174/7, do thượng thương.
+ Đệ Tứ: Nguyễn Sĩ Câu, giỗ 23/5, do thượng thương.
-Đệ thập đợi Hiển khảo Tiền bổn tổng tổng Giáo Dự Bổn thôn văn võ Hội Nho Trưởng Đăng Kỳ lão Thọ Nguyễn Mạnh Đường, Tự Thế Đức, Thụy Phác Hậu phủ quân, húy Kế - Sinh ất hợi niên; Tốt bính Tuất niên, thọ 72 tuổi, giỗ ngày 20 tháng 6.
* ĐỆ NGŨ ĐỢI QUÝ CHI TỪ ĐƯỜNG
Tiên nhân Thụy Hiệu huý nhật
Trưởng Tôn Nguyễn Sĩ Đoá chủ Tự.
- Hiển Tằng Tổ khảo Tiền thập lý Hầu lịch thụ. Trưởng Khoán Đăng Thượng Thọ Nguyễn quý công đệ quý hàng, Tự Hữu Du, Thụy cang trực ohur quân, huý. Sắc. giỗ ngày mùng 1 tháng 10.
- Hiển Tằng Tổ Tỷ Tiền Thập Lý Hầu Lịch thụ trưởng Khoản Đăng Thượng thọ Nguyễn công chánh thất Nguyễn Thị hàng nhất tự: Lệ Trạch, Thụy Từ mẫn nhụ nhân, húy Đoài, giỗ ngày mùng 1 tháng 6.
+ Tổ Bá húy Nguyễn Sĩ Thuyết, giỗ mùng 1/6.
+ Tổ Bá húy Nguyễn Sĩ Đổ, giỗ ngày 25/9.
+ Tổ Thúc húý Nguyễn Sĩ Tạo, giỗ ngày 11/40
+ Tổ cô huý Nguyễn Thị Đông, giỗ ngày 11/5.
+ Tổ cô húy Bà Thải, giỗ mùng 5/10.
- Ngoại Tổ ông Hậu Thần; Bà Hậu thần Thụy Hiệu húy Nhật, thờ tại Từ Đường chi Út, có ruộng kỵ tại bổn Thôn, 2 sào tại xứ xối xối, thay phiên nhau cày cấy để cúng tế,
- Ngoại Cao Tổ khảo Tiền Nhiêu phu Kiêm Thủ Điện Đăng Thượng Thọ Hậu Thần Nguyễn quý công Thụy Chơn Trực Phủ quân húy Nguyễn Trọng Xênh, giỗ ngày 16/3.
- Ngoại Cao Tổ Tỷ Tiên Nhiêu phu kiêm thủ Điện Đăng Thượng Thọ Hậu Thần Nguyễn công chánh thất Nguyễn Thị hàng nhất Hiệu Từ thận nhụ nhân huý Thị Huân, giỗ mùng 2/1.
Song mộ tình tại bốn thôn, hợp táng tại xứ THÒI NGÒI, Trước đây bổn chi đã xây mộ vôi Đá, có bia Đá.
- Ngoại Tổ Can Hậu Thần vô tự, nuôi con gái của em ruột Nguyễn Trí Dực tên Nguyễn Thị Đoài làm con rồi gả cho ông cố của tôi, Hiệu bà can Trị, có trí ruộng cấp cho bốn thôn nên được làm Hậu Thần.
LỊCH ĐỢI THẾ THỨ
1, Đời thứ nhất (Đệ Nhất Đợi)
-Đệ nhất đợi Tiên Tổ khảo Hiệu ông cố Tích. Mộ của ông bà Tiên tổ đã thất lạc; Tên húy và ngày giỗ đều thất truyền. Tương Truyền ông bà cố Tích nay Từ Đường. Xuân - Thu 2 lễ tế Tôn làm Đời thứ nhất tiên tổ khảo.
- Đệ nhất đợi Tiên tổ tỷ hiệu bà cổ Tích, theo chúc văn bà Tiên Tổ (Tích) cổ Hiệu: Trực tả hiệu, ông bà cố Tích gia đệ nhất đợi tổ Tiên Tổ khảo - Tiên Tổ tỷ, sau đến đệ nhị đợi Tổ, đệ tam đợi Tổ, theo như vậy mà làm.
Sinh hạ nam tử húy Sĩ Phường
2, Đệ nhị đợi (Đời thứ 2)
- Đệ nhị đợi Tổ khảo hiệu ông cố Vinh húy Sĩ Phường, ngày kỵ nhất truyền, Mộ tại cốc sơn, Địa phận thôn Xuân Dương, ngày xưa gọi là hướng Nam của vườn cố Lợi.
- Đệ nhị đợi Tổ Tỷ hiệu bà cố Vinh, tên húy, ngày giỗ đều thất truyền, mộ tại bổn thôn -hướng Đông xứ vòm Ninh.
Mộ tổ ở cốc Sơn trước đây bị lạc, lúc cha ông tôi đi thi được người tại xuân Dương chỉ tìm tại xứ cốc sơn trong vườn ông cố Lợi, cha ông tôi cùng các chú bác trong tộc truy nhận, đã đắp mộ lại và cắm cọc làm dấu, nhưng không rõ đó là mộ cố Tích hay cố Vinh.
sinh hạ: Nam tử húy Sĩ Chợ.
3, Đời thứ 3:
- Đệ tam đợi Tổ Khảo Hiệu ông cố Hoạch, húy Sĩ Chợ, Mộ tại bổn thôn; phía Tây bắc núi Thòi Ngòi gọi Nhà Ngòi xứ, mộ hướng Tây, giờ ngày 26/6.
- Đệ tam đợi Tổ Tỷ Hiệu bà Cố Hoạch, húy: Nguyễn Thị Diên, Mộ tại xuân ổ - xứ rái rát, Mộ hướng Tây, giỗ ngày 25 tháng 8.
Thụy:
+ Đệ tam đợi Tiên Tổ khảo Tiền viên Lý Nguyễn quý công Thụy Chất phác phủ quân tiên Linh.
+ Đệ tam đợi Tiên Tổ Tỷ Tiền viên lý Nguyễn Công chánh Thất Hiệu Từ Dung Nhụ Nhân tiên Linh.
* Từ Đời thứ 3 trở xuống Tên húy; ngày giỗ cùng tên Thụy đều chép đủ trong phố chí thờ tại Từ Đường, đến ngày giỗ hằng năm, chúc văn nên viết Tên Thụy, tên hiệu như vậy mới gọi là kính cẩn lễ Tế xuân - Thu. Tế văn viết từ đời thứ nhất ghi theo cổ Hiệu, gia thêm đời thứ 2, đời thứ 3..., theo sau y vậy mà làm.
Sinh hạ: nam tử húy Sĩ Viên, Nữ Tử Nguyễn Thị Quy, Mộ tại Vòm Nhà Ninh xứ, giỗ ngày mùng 10 tháng 4, Nguyễn Thị Khanh; mộ tại -Vòm tròn xứ.
4, Đời thứ 4
- Đệ tứ đợi Tổ khảo Hiệu ông cô Thường, xưa có hiệu cố Trước, Húy Sĩ Viên; Mộ tại Bổn thôn núi Thòi Ngòi, Hiệu Trại nhà Ngòi xứ, mộ hướng Nam, giỗ ngày 25 tháng 10.
- Đệ tứ đợi Tổ Tỷ Hiệu Bà cố Thường; húy Nguyễn Thị Sân; Mộ tại bổn thôn xóm sau Lối Nghè xứ, Mộ Đông bắc – cấn hướng; Truyền Vi phát phúc, bổn tộc Đã xây Mộ Đá. giỗ mùng 10/8.
Thụy:
+ Đệ tứ đợi Khảo Tổ Tiền viên Lý Trùm Trưởng Lão Nhiêu Nguyễn quý Công Thụy Chơn Trực phủ quân Trên Linh.
+ Đệ tứ đợi Tổ Tỷ Tiền viên lý trùm Trưởng Lão Nhiêu Nguyên công chánh thất Nguyễn Thị hàng nhất hiệu Từ Thận Nhụ Nhân Tiên Linh.
Thường nghe Bác chú tôi kể rằng: Năm ông cố Can Trị của tôi ngoài 70 tuổi thì thường bị bịnh đau bụng, một đêm nằm mộng thấy một người áo mão cao lớn dẫn đến một xứ đất chỉ cho bảo rằng: "Người nên cải táng mộ mẹ người tại chỗ này thì bịnh đau bụng của người sẽ hết. Người đó còn cắm cây làm dấu, khi tỉnh dậy ông còn nhớ rõ và đợi trời sáng liền đến xem nghiệm lại chỗ đất đó, quả nhiên là một vườn hoang có đủ các cây tạp, chính giữa có vùng đất trũng xuống 4 bên cây ngã rạp ra giống như có người dẫm đạp trồng trọt ở đó, hỏi kỳ ra do trước đây. Mục Đồng vui đùa nên như vậy. Khoảng 3 đến 4 tháng sau trong thôn có người họ Lê Hương Cống tiên sinh dời đến ở Bích Triều có dẫn theo 1 Thầy Địa lý đến chọn đất hỏi ra biết được là vườn hoang của ông cố Can Trị tôi do có ý tìm huyệt mộ nên ông cố tôi giữ (lưu) Hương cống và thầy Địa lý lại khoản đãi rồi sau dẫn đến chỉ mãnh đất đã định và nói rằng:" Riêng các chỗ đất khác làm gì thì Tùy ý, nhưng chỗ này thì tôi để lại táng mẹ tôi". Đến đây 2 ông Hương cống và Thầy Địa lý nhìn nhau cười. Sau đó không lâu ông cố tôi bèn cải táng mộ mẹ ông tại đó. Đó chính là mộ bà cố Thường. Mộ đó sau được các thầy Địa lý Kinh nghiệm xen nhận là đất Đại phước, bèn xây mộ đá.
Sinh hạ: Xem lại phổ cũ có ghi: Cố Trước húy Viên, chánh thất huý Sân, Sinh hạ: huý Sớm phạp tự, húy Khoá, huý Sắc, huý Sở cũng phạp tự, ngoài ra còn có Sĩ Hưu là con của Sĩ Viên do cha tôi trước ngày đã ghi theo thứ tự thì còn có ghi chú.
+ Trưởng Nam huý Nguyễn Sĩ Hưu-tảo một (chết sớm), mộ tại bổn thôn xối xối xứ, giỗ ngày 22 tháng 8.
+ Đệ nhị nam huý Sớm, hiệu ông Bình, Sinh 1 con trai danh Bình chết trẻ phạp tư, ông Bình mộ tại bốn thôn côn Lim xứ, giỗ ngày 18 tháng 9. Thụy: Tiền thập lý Hầu Nguyễn quý công Thụy Minh Đạt phủ quân.
+ Đệ tam nam húy Nguyễn Sĩ Khóa, hiệu cố Đạo, Lại có hiệu Can Mậu, con cháu phồn diễm, ghi rõ ở phần sau
+ Đệ tứ nam húy Nguyễn Sĩ Sở; huý ông Khiết phạp Tự, Mộ tại xóm sau Lòi Nghè xứ, do hành binh Mông thụ Khuông hữu Đội, sắc hiện còn, giờ mùng 10 tháng 4.
Thụy:
+ Tiền ưu binh Thị hầu khuông hữu đội bá hộ Thụy Tựu Tại phủ quân
+ Đệ ngũ Nam húy Nguyễn Sĩ Sắc, hiệu có Ngạn, lại có hiệu Can trị, con cháu phồn diễm - ghi rõ ở phần sau.
5. Đời thứ 5: Trường chỉ, Từ đời thứ 5 mới bắt đầu chia 2 chỉ Trưởng - Quý (út):
A, Can Mậu húy Khoá là Trưởng chi sinh hạ con cháu ghi theo trưởng chì,
B, Chi út Can Trị húy Sắc sinh hạ con cháu ghi theo chì út
- Đệ ngũ đợi Hiệu ông cố Đạo; lại có hiệu ông can Mậu húy Sĩ Khóa, là con trai thứ của cố Thường, con thứ kế làm trưởng; thọ 94 tuổi, mộ dưới chân hang núi Xuân Dương, Mộ hướng tốn, giỗ mùng 6/11.
- Đệ ngũ đời hiệu bà cố Đạo lại có hiệu bà cạn Mậu, húy Nguyễn Thị Tuyên là con gái Tộc Nguyễn của cố Lê Hiệu Sinh (Tộc Nguyễn Hữu), Mộ tại bổn thôn trong trại xú Thòi lòi, giỗ ngày 22/10.
Thụy:
+ Đệ ngũ Đợi Tổ khảo tiền viên lý Trùm Trường Đăng Thượng Thọ Nguyễn quy công Thụy Thành Trực phủ quân,
+ Đệ ngũ đợi Tổ Tỷ tiền viên lý trùm trưởng Đăng thượng thọ Nguyễn công chánh thất Nguyễn Thị hàng nhất hiệu Trinh thục Nhụ phân.
Phần Mộ ông Can Mậu nay tại thôn Xuân Dương dưới chân hang núi, Trong trại ông xã phương, Nhánh mạch từ càn hợi chuyển về Sơn Tân, lập Tốn hướng (Hướng Đông Nam) - Tọa cấn hướng Tốn (đầu Tây bắc - chân Đông Nam), mộ do Đường Bá Tú tài Cố Định dời về táng; trước đây có Tốn sa (dãi cát chạy hướng Đông Nam) nhập làn dòng thuỷ triều đông nam
Sinh hạ tử nam: Xung trưởng, Hạng thứ, Thùy thứ 3, Bình thứ 4. 4 người con trai đều thọ, con cháu nối dòng đông đúc chia làm 4 chỉ.
+ Đệ nhất nam húy Xung, Tự Nguyễn Sĩ Tình, Hiệu cố Lãng
+ Đệ nhị nam hý Hạng, Tự Nguyễn Sĩ Thanh; Hiệu cố Thùng
+ Đệ tam nam huý Thùy, Tự Nguyễn Sĩ Thùy, Hiệu cố Dụng.
+ Đệ tứ nam huý Bình, tự Nguyễn Sĩ Khiết, Hiệu cố Ái.
5, Đời thứ 5 – chi út
- Đệ ngũ đợi Hiệu ông cố Ngạn; lại có hiệu ông Can Trị, húy Sĩ Sắc, Tự Hữu Dụ, thọ 89 tuổi, là con trai út của cố Thường, sinh năm bính thìn 1736 - Mất năm Minh Mệnh thứ 15-giáp thân 1824.
- Đệ ngũ đợi hiệu bà cố Ngạn, lại có hiệu bà Can Trị húy Nguyễn Thị Đoài là con gái của Nguyễn Trí Dực, là con nuôi của ông bà Hậu Thần Nguyễn Trọng Xênh, Bà Đoài sinh năm Nhâm Tuất 1742, mất năm Đinh Tỵ 1797.
CAN TRỊ PHẦN MỘ:
Song phần ông bà hợp táng tại bổn thôn núi Thòi lòi, mạch khởi đỉnh từ Cấn; mặt trước từ đỉnh hạ xuống 1 cấp bính - đinh; hướng Nam. Ông Can Trị giỗ ngày mùng 1 tháng 10, bà Can Trị giỗ mùng 1 tháng 6.
Thụy:
+ Tằng Tổ khảo Tiền thập lý Hầu lịch thủ Trưởng khoán Nguyễn Quý công Đệ quý hàng Tự Hữu Dụ, Thụy cang trực phủ quân.
+ Tằng Tổ tỷ tiền thập lý Hầu lịch thủ Trưởng khoán Nguyễn công chánh thất Nguyễn Thị hàng nhất tự Lệ Trạch hiệu Từ Mẫn Nhụ Nhân,
Sinh hạ: 7 con trai thọ 4, 5 gái thọ 3: Hải Trưởng, Đán thứ, Lược (Thao) thứ 3, Vấn út, 4 người con hưởng thọ, sau sinh hạ con cháu đông đúc thành 4 chỉ:
+ Trưởng nam húy Hải; tự Nguyễn Sĩ Ngũ Hương Bộ Danh, Hiệu Cố Chánh, lại có hiệu Cố Hoa - do lấy theo tên con gái của bà Chánh là bà Hoa xưng hô.
+ Đệ nhị nam húy Nguyễn Sĩ Thuyết - Tảo một, mộ tại bổn thôn - Vòm Nhà Ninh xứ, mộ hướng đông, giỗ ngày mùng 3 tháng 2.
+ Đệ tam nam huý Đán; tự Nguyễn Sĩ Biểu, hiệu là Cố Tuần thám do được nhận bổn tỉnh cấp bằng chức Tuần thám, lại có hiệu Cố Đàm - do xưng hô theo tên con gái trưởng bà Đàm, ghi rõ ở phần sau.
+ Đệ tứ nam húy Lược; Nguyễn Sĩ Lược, tòng bình hiệu Ngũ Trưởng Đoan, Trước xưng hô ông Lư, sau xưng hiệu cố Khuê. ghi rõ ở phần sau.
+ Đệ Ngũ nam húy Đổ, tảo một, Mộ tại bổn thôn xóm sau Xứ Nàng quan. giỗ ngày 25 tháng 9.
+ Đệ Lục Nam húy Vấn, Tự Nguyễn Sĩ Chấn, Hiệu Cố Cụ -ghi rõ ở phần sau.
+ Đệ Thất Nam hý Tộ, tảo một, Mộ tại bổn thôn xóm sau xứ Nàng Quan - giỗ ngày 11 tháng 4
+ Trưởng Nữ Nguyễn Thị Đông, tảo một, mộ tại bổn thôn Thòi lòi xứ, giỗ ngày 11 tháng 5,
+ Thứ Nữ Nguyễn Thị Cung, có chồng Nguyễn Trọng Thuyên, sinh con tên Trị, do xưng cha mẹ theo tên con nên gọi ông Trị - bà Trị lại truy xưng theo ông bà Ngoại hiệu Can Trị; sinh 8 nam 3 nữ.
+ Lại thứ Nữ Nguyễn Thị Thao, có chồng về tộc Nguyễn cùng thôn, Hiệu bà cố Phương sinh 3 trai 1 gái, Nay ông cố Lượng là cháu, ông Phương là anh của cố Phi, bà Phương là chị của Cố Khuê.
+ Thứ tư nữ Nguyễn Thị Tham, có chồng người xuân bảng thôn Phước An: Đinh Sĩ Lãnh, hiệu bà cố Ơn Sinh 2 con trai, thọ 1: Cố Tuần Đệ, 4 con gái còn 3. Nay con cháu đông đúc.
+ Thứ Năm Nữ Nguyễn Thị Hạch; hiệu bà Thải, có chồng tại thôn Xuân ô - giáp Đông Nội, chưa sinh nở chết trẻ, mộ tại bổn thôn xứ Thòi Lòi - Ngoài trại giỗ ngày mùng 5 tháng 10, thờ tại Từ Đường ông Cố, Tổ Cô hiệu bà Thải sau khi mất rất hiển linh. Nay tra lại di chúc của ông cố thấy có Viết: Mùng 5 tháng 10 giỗ 4 nàng, cứ theo hàng con gái thì bà đúng thứ 4.
6, Đời thứ 6 chi trưởng
- Đời thứ 6 hiệu ông cố Lãng huý Xung, tự Nguyễn Sĩ Tình, là con trưởng của Can Mậu, thọ ngoài 70 tuổi, giỗ ngày mùng 4 tháng. 10.
-Đời thứ 6 trưởng hiệu bà cố Lãng, húy Nguyễn Thị Luân gia phổ của ông nội phụ biên Bà cố Lãng húy Nguyễn Thị Luân, giỗ ngày 25 tháng 2.
Thụy:
+ Tổ khảo Tiền Lê Triều Tráng Tiết Tướng quân Phó thiên hộ chức TÌNH NGHĨA HẦU thuy ôn Trực phủ quân.
+ Tổ Tỷ Tiền Lê Triều Tráng trết Tướng quân Phó Thiên hộ chức Nguyễn công chánh thất Nguyễn Thị hàng nhất, Hiệu Từ mẫn nhụ nhân.
Thường nghe Bác chú tôi kể lại rằng: Cố Lãng con trưởng của can Mậu; tính Dũng mãnh quả cảm; Xuất thân bình ngũ, đánh trận lập công được triều Lê Cảnh Hưng ban sắc Tử: "Tráng Tiết Tướng quân" - phó Thiên hộ chức, lại đích thân đến dẹp loạn cùng Tây Sơn nên thọ sắc. Từ khi ngã Cao Tổ khai quốc. (Vua Gia Long phục quốc), ông nhận lệnh ẩn trấn nhiều nơi tại quảng Nam - Quảng Nghĩa 2,5 năm rồi mới Về quê, Thọ ngoài 70 tuổi. Nay các sắc hiện còn: 2 Đạo sắc phong thời Lê Cảnh Hưng năm thứ 44(1783), 1 Đạo sắc phong thời Ngụy Tây Thái Đức, 1 Đạo sắc phong thời Quang Trung.
PHỤNG SAO SẮC VĂN CÁC ĐẠO:
1, Sắc Nam Đường huyện Hoa Lâm xã, Nguyễn Sĩ Xung, vì Dĩ thị hầu nội khuông Hữu Đội ưu binh, Nhâm Dần niên đồng dữ nội ngoại chư quân Dực tải Hữa công dĩ kinh chuẩn ứng thăng chức nhị thứ, Tịnh thụ đội trưởng bổn thân bá hộ đẳng chức khả dĩ phấn lực Tướng quân; hiệu lệnh kỵ Tráng Sĩ bá hộ trật cổ sắc.
Cảnh Hưng năm thứ 44 (1783) – Sắc mệnh Chi Bửu - Tháng 2 ngày 26.
2, Sắc Nam Đường huyện - Hoa Lâm xã, bá hộ chức Nguyễn Sĩ xung, vì dĩ thị hầu Nội Khuông Hữu Đội ưu binh. Nhâm dần niên (1722) Đồng dữ nội ngoại chư quân Dực tải, tự vương hữu công dĩ kinh chỉ chuẩn thăng chức nhị thứ, Tái khâm thường nhất thứ, ứng thăng phó thiên hộ chức, Khả vị Tráng trết tướng quân hiệu lệnh ty thứ Kim Tráng sĩ thiết kỵ phó thiên hộ Trung liệt
Cố sắc Cảnh Hưng năm thứ 44
Tháng 2 ngày 26 (26/2/1783).
Sinh hạ: 5 con trai phồn Diễm: Vựng - Lục -Triện - Chế - phù, cả 5 người đều thọ.4 người con gái đều trưởng thành, có chồng sinh hạ.
Thứ Thiếp Người Nam Kỳ Sinh 1 con trai tên Giai, thích nghề đi ca hát, chết mất không về quê.
Tiên Tổ Nguyễn Sĩ Thụy, Thụy sinh Nguyễn Sĩ Tư, Tư sinh Nguyễn Sĩ Lan – Vào Triều lê đi lính làm phó đội. Lan sinh Nguyễn Sĩ Lãng -Lê triều Mậu Lâm Lang Thiếu Khanh Trinh Trung Tử, Lãng nuôi Trí Ngân làm con mình. Đổi thành. Nguyễn Ngân - Lê Triều Ích Tự thừa Tuy trung tử. Nhân cưới vợ, Nguyễn Thị Nhiệm sinh Nguyễn Ngạch, Ngạch sinh con gái Nguyễn thị Luân,
+ Trưởng nam húy Vựng; tự Nguyễn Sĩ Khâm. Minh Mệnh Khoa Ất dậu (1825) đâu Tú tài, Thọ 73 Tuổi; hiệu can Đồ.
+ Đệ nhị nam huý Lục, Tự Nguyễn Sĩ Điếu. Năm mình mệnh tân mẹo (1831) đậu Tú tài, Thọ 86 tuổi, hiệu can Xuân (can Định)
+ Đệ tam nam húy Triện, tự Nguyễn Sĩ Quyển, Biền Bình Thư Lại về Hưu, thọ 78 tuổi, Hiệu Cố Nhơn (can Nhơn)
+ Đệ tứ nam húy Chế, tự Nguyễn Sĩ Toản, thọ 73 tuổi, hiệu ông cố Chung (can Lình).
+ Đệ ngũ nam húy Phù, Tự Nguyễn Sĩ Nghĩa; thọ 60 tuổi; hiệu ông cố Sùng (can Sòng).
+ con gái có chồng cùng thôn người họ Phan, hiệu bà... Sinh hạ Cai Thược, Cai Kiệm đẳng, nay con cháu nối dõi.
+ Con gái có chồng người tộc Nguyễn Nhơn sở thôn Xuân Dương; hiệu bà cố Đô, sinh hạ con cháu nối dòng đông đúc.
+ con gái có chồng người Tộc Văn Đình ở thôn Văn Giai; hiệu bà cố Bá Thường, sinh hạ Tú Tài Văn Đình Thường, nay con cháu đông đúc đúc - có văn học.
+ Con gái có chồng Người tộc Nguyễn trong thôn, hiệu bà … Sinh hạ trai gái đông đúc, con trưởng đi lính nhận chức Điển Lại.
Nay nói lại cố Lãng lúc sinh tiền hiệu Đội Tình; lúc đi lính có con riêng tại CHỢ VẠC ở tổng xuân. liễu hạ, giấu kín đến khi mẹ người đó lâm chụng có thấy di chúc để lại cho con mình phải đên nhận. Xuân Lâm Viên Ngoại Thôn - ông Đội Tình là cha, về sau khi trưởng thành người đó có đến nhận. Đến năm Tự Đức người đó đã ngoài 6-7 mươi tuổi có đến Từ Đường bái yết và lệnh cho 2 con trai cũng đến Từ Đường lạy nhận Tô Trên. Nay người đó đã qua đời, con cháu theo nề nếp sinh hạ nối đời giàu có.
6, Đời thứ 6 chi thứ 2
Đời thứ 6 hiệu ông cố Thùng húy Hạng; Tự Nguyễn Sĩ Thanh, là con trai thứ 2 của Can Mậu, là em ruột của Cố Lãng; thọ 93 tuổi.
- Đời thứ 6 hiệu Bà Cố Thùng, húy Bùi Thị Thành, Là con gái Tộc Bùi ở thôn xuân ổ
Sinh hạ: 5 con trai, thọ 3 người.
Hoảng – Trịnh - Hĩnh - Trang yểu - Nãi chết trẻ.
+ Con trai thứ 1 húy Hoảng; tự Nguyễn Sĩ Quảng; gọi theo tên của cháu gái có hiệu cố Khôn, lại có hiệu can Phan; Thọ 86 tuổi. ghi rõ ở phần sau.
+ Con trai thứ 2 húy Trạnh; tự Nguyễn Sĩ Trịnh, Đi lính nhận bằng cấp Đội Trưởng hiệu ông Cai Duy, xưng theo cháu gái có hiệu cố Miến, Thọ 66 tuổi. ghi rõ ở phần sau.
+ Con trai thứ 3 húy Hĩnh; tự Nguyễn Sĩ Hĩnh, hiệu ông cố Bổn, lại có hiệu ông cố Đương; thọ 86 tuổi, Sinh hạ 2 trai: Sĩ Bổn, Sĩ Quang, có nữ, có nam phạp tự
+ Con gái có chồng Tộc Nguyễn Trọng trong thôn;" hiệu Bà Đông, sinh hạ con cháu nối dõi.
6, Đời thứ 6 chi thứ 3
- Đời Thứ 6 hiệu ông cố Dụng huý Thùy, tự Nguyễn Sĩ Thuỳ, là con trai thứ 3 của can Mậu; là em Ruột thứ của cố Lãng
- Đời thứ 6 hiệu Bà Cố Dụng, người cùng thôn, huỷ Thị Bàn,
Sinh hạ: Đoan phạp tự, Truyền phạp tự, Gián, Hán yểu thương
+ Trưởng Nam húy Sĩ Đoan; Có sình con gái; không có con trai nên phạp tự.
+ Thứ nam Sĩ Truyền, có gái không trai phạp tự.
+ Lại thứ Nam Sĩ Gián; hiệu cố Trợ, hưởng thọ, ghĩ rõ ở phần sau.
+ lại thứ Nam húy Hán yểu thương.
6, Đời thứ 6 chi thứ 4
Đời thứ 6 hiệu ông cố Ái; húy Bình, trước có hiệu cố Trương, Tự Nguyễn sĩ khiết, là con trai thứ 4 của can Mậu, là em ruột thứ của cố Lãng.
Đời thứ 6 hiệu bà cố Ái, húy Bùi Thị Da, là con gái Tộc Bùi thôn xuân Bảng,
Sinh hạ: 3 trai-3 gái: Tráng; Cứng yểu; Duẩn.
+ Trưởng Nam húy Sĩ Tráng; Hiệu ông Huệ -Có con trai tên Huệ nên gọi hiệu Ông Huệ, ghi rồi phần sau
+ Thứ Nam hủy Sĩ Duẩn, hiệu ông Khải, do gọi theo tên Con trai Khải nên có hiệu ông cố Khải, ghi rõ ở phần sau
+ Con gái đầu lòng có không về họ Võ trong thôn Nguyễn Đăng hiệu Ông Ái bà Ái; Sinh Trưởng Nam cố Tuần Thể, thứ Nam ông Đội Tám. Nay con cháu nối dõi.
+ Con gái thứ có chồng người tộc Bùi ở thôn Xuân bang hiệu bà Vỹ.
+ lại con gái có chồng tộc Phan trong thôn; Hiệu Bà Hiên, Sinh hạ con cháu nối dòng.
6, Đời thứ 6 con trưởng của can Trị chi 1.
- Đời thứ 6 hiệu ông Cố Chánh: Lại hiệu cố Hóa; húy Hải, tự Sĩ Ngũ, con trưởng của Can Trị, thọ 78 tuổi.
- Đời thứ 6 hiệu bà cố Chánh, Hành, lại hiệu bà cố Hóa, huý Bùi Thị Tuấn, con gái tộc Bùi thôn Xuân Bảng. Thụy: Tổ khảo Tiền Thập lý Hầu Đăng thượng thọ Nguyễn Mạnh công Thụy: …. Tiên Linh.
+ Tổ Tỷ Tiền Thập Lý Hầu Đăng Thượng Thọ; Nguyễn Công chánh thất Bùi Thị hàng Tam, hiệu Từ khiết Nhụ nhân Tiên linh.
Sình hạ: Trước sinh 3 gái, sau sinh 2 trai. (cơ) Cả trưởng, Oa Thứ
+ Trưởng Nam húy Cả, tự Nguyễn Sĩ Cảnh; Hiệu Cố Giáo; lại theo tên cháu Thuật nên có hiệu Cố Thuật, Thọ 74 tuổi. ghì rõ ở phần sau.
+ Thứ Nam húy OA; tự Nguyễn Sĩ Lân, sinh con tên Lầu hiệu ông Lầu. ghi rõ ở phần sau
+ Con gái đầu lòng có chồng tộc Phan Văn trong thôn, hiệu bà Chánh, lại theo tên cháu hiệu bà Hoá; sinh 4 trai 1 gái: ông Tân húy tên Tu, ông Quyền thư lại húy Danh Vị. Đó là con trai của bà Chánh, nay con cháu nối dõi.
+ Thứ Nữ, đời trước có chồng người tộc Phan Văn trong thôn, sinh 1 trai Phan xã Du, chồng chết sớm bà có chồng khác người Tộc võ cố Tổng Trương, hiệu bà tổng Trương, sinh hạ 3 trai: Lý Bính, Hương thân, Lệnh Lý Trung, con cháu nối dòng. Người con đời trước. Xã Du nay ngoài 90 tuổi, hiệu cô Xiển
+ Thứ nữ có chồng người thôn xuân Tường, hiệu bà Thống vô Tự.
6, Đời thứ 6 chỉ thứ 2: con trai thứ của Can Trị
- Đời Thứ 6 Hiệu ông cố Đạm; lại hiệu có Tuần, húy Đán; Tự Nguyễn Sĩ Biểu là con trai thứ của Can Trị, là em vuột của cố Hóa, thọ 70 tuổi.
- Đời thứ 6 Hiệu bà Cố Đạm, lại hiệu bà cố Tuần, húy Nguyễn Thị Cẩm, là con gái của Tộc Nguyễn Nhơn Xuân Dương, theo tên con gái trưởng bà Đạm tức là mẹ của cố Vịn, nên xưng là cố Đạm.
Thụy:
+ Tiền Tổng Hội Hội Trưởng Kỳ thụ bổn tỉnh cấp bằng Tuần Thám, Đăng thượng thọ nguyễn nhị lang; tự Hữu lý tiên linh.
+ Tiền Tổng Hội Hội Trưởng Kỳ thụ bổn tỉnh cấp bằng Tuần thám, Đăng thượng thọ Nguyễn công chánh thất Nguyễn Thị hàng tam Tiên linh.
Được Nghe đời trước Bác chú kể rằng: Cố Tuần từ nhỏ theo học thi chữ nghĩa, là người gan dạ quyết Đoán, hễ mọi việc trong làng xã thảy dùng người nghiêm nghị quyết Đoán để tránh phiên hà nên bổn tổng chọn ông làm Tổng Hội Hội trưởng. Thời đó trong tổng bọn cướp hô hào tụ tập cướp giựt làm dân ở không yên. Năm Minh Mệnh thứ 15 (1834) bổn tỉnh cấp cho ông bằng " Sứ Suất Thủ hạ Tuần Thám”, từ đó trong phủ dân chúng ở yên mến ông có hiệu Cố Tuần.
Sinh hạ: Đạo – Tạo - Đình – Toại, 4 nữ: bà Đạm -bà Đàm, bà Khuông - bà Đống. Bà Đạm sinh cố Vịn; bà Khuông sinh 4 nữ, bà Đàm sinh xã Đàm người xuân Bảng, bà Đống sinh xã Đống nay ông Cấu.
PHỤ SĨ ĐẠO SONG THUY HIỆU
+ Tiền Thập lý Hầu Kiêm Trùm Trưởng Đăng lão Hạng Nguyễn công chánh thất Bùi hàng Tam Tiên Lình.
+ Tiền Thập lý Hầu Kiêm Trùm trưởng Đăng lão Hạng Đệ nhất lang, tự Nguyễn Cử tiên lình.
+ Trưởng Nam húy Nguyên Sĩ Đạo; Hiệu ông … có vợ con gái Tộc Bùi thôn Xuân Bảng hiệu bà...
Sình hạ: Sĩ Cát Thọ 70 tuổi, Sĩ Ưng chết chìm, Sĩ Ý yếu, Sĩ Tư yểu. Trưởng Nam Sĩ Cát cưới Vợ là Con gái Tộc phan. Tràng Các sinh con trai danh Nhương; nay phạp tự.
+ Thứ nam húy Sĩ Tạo; hiệu ông Cố Thạch, cưới vợ con gái Tộc Nguyễn Duy thôn Xuân Bảng hiệu bà Thạch Sinh được 4 trai: Truy trưởng, Trác phạp tự, Chấp yểu, Tác yểu. Trưởng Nam Truy nối dõi lại sinh thêm 3 con gái đều thành gia thất, ghi võ ở phần sau.
+ Thứ nam húy Đình danh sĩ Miên; hiệu ông Lợp; bà Lợp sinh 2 trai yểu thương, phạp tự.
+ Lại quý Nam húy Toại đi lính nhận chức ngũ Trường trong bộ tên Niệm - Ngũ trưởng Niệm có vợ sinh 1 Con trai tên Hạnh. Ngũ trưởng Niệm chết sớm, vợ ông có chồng nhác. Về sau Sĩ Hạnh trưởng thành cưới vợ là em gái ông Tuần Thể trong thôn sinh được 2 trai - 2 gái. ghi rõ ở phần sau.
PHỤ SAO CỔ TUÂN BẰNG CẤP (Sao lại bằng cấp của cố Tuần An Tĩnh Tổng Đốc quan phòng Vi bằng cấp sự chiếu đắc Anh Sơn phủ - Nam Đường huyện. Hoa lâm Tổng - Hoa lâm xã; Nguyễn Sĩ Biểu vi nhân mẫn cán, phủ nội nhân dân tín hướng nghĩ ứng quyền cấp Văn bằng vì Tuần Thám Tỳ ninh địa diện, tiếp thử hợp hành bằng cấp nghĩ suất bổn phân thủ hạ đẳng danh Hồi tường sở tại. địa phương quan cứ phủ nội địa diện chư chấp yếu lược TUẦN THÁM hệ Hữu miễn phạm cập cướp đồ kiểu tụ hà xứ thám đích tùy cơ Nã bổ thượng thế Lực bất cảm thính tường địa phương quan tướng binh cầm nã chợ hệ sự quan tu nghĩ thật lực thừa hành vụ tại thập phân thòa Tề, nhược cố sự tư ưu hào dân giác xuất tất can trọng tối, Tu chí bằng cấp giả. Hữu bằng cấp Anh Sơn phủ Nam Đường - Hoa lâm Tổng - Hoa lâm xã Nguyễn Sĩ Biểu cứ thử.
Mình Mệnh năm thứ 15, tháng giêng ngày 16 (16/1/1834)
6, Đời thứ 6 chi 3
Con trai thứ của Can Trị là chi thứ 3.
- Đời thứ 6 hiệu ông cố Khuê, trước có hiệu ông Lư, húy Lược, tự Nguyễn Sĩ Lược, đi lính nhận chức ngũ trưởng hiệu Ngũ Trưởng Đoan, tên trong bộ: Đoan; thọ 75 tuổi.
- Đời thứ 6 hiệu bà cố nhuê, húy Nguyễn Thị Sạ, Bà là người tộc Nguyễn trong thôn; em ruột của cố Phì.
Thụy:
+ Tiền Định võ vệ Ngũ Trưởng Đoan; đăng lão nhiêu Nguyễn Tứ Lang.
+ Tiền Định võ vệ cửu Đội Ngũ Trưởng Đoan Đăng lão Nhiều Nguyễn công chánh thất Nguyễn Thị hàng nhất.
Sinh hạ: Trước sinh con gái có chồng người trong thôn tên xã Lư, nên có hiệu xưng ông bà Lư.
4 con trai, 2 gái: Thảo trưởng, Tùy thứ 2, Kim thứ 3, Thấu thứ 4.
+ Trưởng Nam húy Sĩ Thảo, Cưới vợ Bùi Thị Quá ở Xuân Bảng Sinh 1 trai Sĩ Trừ, Trừ cưới vợ snh 1 nam tên Sĩ Thuỳ, Thùy sinh 2 gái, Sĩ Thuỳ mất sớm nay phạp tự.
+ thứ Nam húy sĩ Tùy, hiệu ông Kính cưới vợ con gái tộc Nguyễn Trí trong thôn hiệu bà Kính, hương thọ 69 tuổi, sinh hạ 2 trai: Sĩ Niên; Sĩ Tộ,
+ Con trai thứ 3 húy sĩ Kim theo sở học nhiều lần thi cử đỗ đạt cao, khi lớn đi lính nhận chức cửa phẩm Thư lại hiệu ông cố Tùng cưới vợ là con gái ông cố Ổn ở xuân Dương; Sinh hạ 2 nữ vô nam, nay ông Tộ thừa tự
Phụ (biên) ông thư Tùng Thụy: Tiền Nghiêm võ Vệ Tam Đội Thư lại Nguyễn Tam lang tự Sĩ Thực tiên linh.
+ con trai út huý Sĩ Thấu, hiệu ông Xứ, cưới vợ là con gái tộc Nguyễn Võ trong thôn; hiệu Bà xứ; Thọ ngoài 70 tuổi; rinh 1 con trai tên húy Trọng, tên Hồ, Hồ sinh 1 con trai tên Sĩ phú.
6, Đời Thứ 6 chi út
Con trai út của can Trị làm chi út
- Đời thứ 6 cha của quan viên húy Vấn, Tự Nguyễn Sĩ Chấn; hiệu ông Cụ, là con trai út của Can Trị; Sinh năm giáp thìm (1784)- tháng 6 - ngày 20-giờ ngọ. Mất năm giáp thìm 1844- tháng 10 ngày mùng 5, thọ 61 tuổi. Mộ cải táng tại bổn thôn - Núi thòi Lòi, Mạch khởi đỉnh từ cung Cấn chuyển qua mé phải đổi hướng từ hợi, Mộ tại chỉ bên phải của cung hợi duỗi xuống; tọa quý hướng Đinh (đầu mộ ghé bắc - chân mộ ghé Nam), giỗ mùng 5/10.
- Đời thứ 6 mẹ của quan viên; húy Nguyễn Thị Duyên, hiệu bà Cụ, là con gái Tộc Nguyễn Đình thôn Văn Giai, cha là Hiệu Sinh Triều Lê-Nguyễn Đình Xán – húy Bính, Mẹ (của bà Duyên) Là Nguyễn Sĩ Văn, bà Duyên là em ruột của Trì Huyện Diên Hà - Cử Nhân Nguyễn Đình Mai, và là chị ruột của Tú tài Nguyễn Đình Chính, bà sinh năm Nhâm Tý 1792; mất năm giáp thìn 1844 tháng 10- ngày mùng 7, thọ 51 tuổi, giỗ mùng 7 tháng 10, Mộ tại Thòi Lòi; Mạch khỏi đỉnh tại sơn Cấn, rẽ nhánh sang phải, mộ ngược Tổ Sơn Cấn, Đầu Tọa canh (ghé tây) - chân ghé hướng giáp (ghé đông).
Thụy:
+ Tiền quan viên phụ Đăng lão nhiêu, Kỳ thụ Tổng Hội Điển ước Nguyễn Đệ Ngũ Lang; Tự Nhi Ngọc Thụy ôn Nghị Tiên Linh.
+ Tiền quan viên Mẫu Đăng Lão Nhiêu, Kỳ thụ Tông Hội Điển ước Nguyễn công chánh thất, Nguyễn Đình Thị hàng nhất, Hiệu Trang Thuận Tiên Linh.
Được Nghe Bác chú tôi kể nghe rằng: Ông Cụ tính ôn hòa nghiêm nghị, thích đọc sách hiểu rộng kinh sử lại thấu hiểu y thư; Tinh thông mạch Lý, thường dùng y thuật cứu người mà không hành nghề, thường lấy việc dạy giỗ con cháu đọc sách làm vui. Hòa mục cùng Tộc nhân, nghiêm túc trị nhà, chọn thầy cho con thì chọn người có văn học - Đức hạnh để học rồi sau mới lãnh nghiệp. Bà Cụ vừa cần với kiệm làm cho gia phong thêm nề nếp ấm no: Nam thời đọc sách - Nữ thời dệt tơ, 2 nhà đều gắng gỏi cho tốt đẹp hơn để con cháu đọc sách thi đậu. Bà thường nằm mộng đọc thơ, lúc tỉnh ghi lại 2 câu khuyên rằng: " chủng đậu hoàn đắc đậu, Môn hộ miên trường phục triêu y". (có nghĩa: Trồng đậu lại được đậu, con cháu nên noi theo đời đời.). Tự tích này còn ghi lại trong sách thuốc quyển đầu. Đến năm quý mão 1843, ông được tin đậu giải thi Hương làm cho 2 nhà phấn chấn. Đến năm giáp thìm 1844; Ông được tin báo thì Hội đậu phó bảng, được báo tin cho Làng - Tộc đến kiệu rước về nhưng ông Cụ tự đi và cho rằng: Đúng lễ ông phải thì đậu và nhận áo mão cận đai Vình quy từ sơm chớ hôm nay mới đỗ thì chưa mãn ý lắm. nên tự đi về bái tổ vinh quy mới đúng. Tháng 3 năm đó ông bà Cụ lâm bệnh nối nhau qua đời, ông Cụ thọ 61 tuổi bà thọ 53 tuổi.
Sanh hạ: 6 Trai thọ 3, 5 nữ thọ 3 thành gia thất: Vinh, Huỳnh, Sầm trung yểu, Sạn, Trình trung yểu.
+ Trưởng Nam húy Sĩ Hượt, Tảo một, giỗ 26/4
+ Con trai thứ húy Vinh, tự Nguyễn Sĩ Ngươn ghi rõ ở phần đời thứ 7.
+ Con trai thứ 3 húy Huỳnh, tự Nguyễn Sĩ Ấn -ghi rõ ở phần sau - đời thứ 7.
+ Con trai thứ 4 huý Sầm, tự Nguyễn Sĩ Thường, theo sở học am tường thông suốt, chưa có vợ chết trẻ, giỗ ngày mùng 7 tháng 5.
+ Con trai thứ 5 húy Sạn, tự Nguyên Sĩ Rằng, sau đổi Nguyễn Thúc Hoằng, ghi rõ ở đời thứ 7 rau.
+ Con trai thứ 6 húy Trình, tự Nguyên Sĩ Lâm theo Sở học nhiều lần dự thi văn đậu thị Hội, chưa có vợ chết non vô hậu, mộ cải táng theo ông Cụ, phía trước dưới mộ ông Cụ 1 cấp, giỗ mùng 8 tháng 8.
+ Con gái húy Nguyễn Thị Ái, Tảo một giỗ ngày 14/5.
+ Con gái thứ 2 huý Nguyễn Thị Bích; là em của Nguyễn Sĩ Ngươn, Sĩ Ấn, là chị của Sĩ rằng, có chồng Tú tài Hàn lâm Điển Bộ Nguyễn Văn Đỉnh - là con trai thứ của quan trú phòng cùng thôn. Ông bà cố Hàn cả 2 cùng thọ, ông Hàn Thọ 92 tuổi, giỗ ngày mùng 3 tháng 10, bà Hàn thọ 88 tuổi, giỗ ngày 13 tháng 3, sinh hạ 4 con trai: Tấn, Phong-Ích – Trạch, 3 người con gái đều thành gia thành thất, nay con cháu đông đúc.
+ Con gái thứ 3 huý Nguyễn Thị Oánh, là em của bà Hàn, là chị của Sĩ Rằng; có chồng người Tộc Bùi Xuân Bảng; là con trai thứ của cố Bình; Hương Đồ Bùi Trọng Thanh, có hiệu bà Đô Thanh sinh hạ trưởng nam tên Tĩnh nên lại có hiệu bà Đô Tĩnh - Thọ 70 tuổi, sinh 3 con trai: Trường Tên Tĩnh; Thứ tên Biện Thường, thứ thứ tên Cai Năm Trường. Nay con cháu nối nòi đông đúc.
+ Con gái thứ 4 húy Nguyễn Thị Phù, là em của bà Đồ Tĩnh, là chị của Nguyễn Sĩ Rằng, bà Phù có chồng người Tộc phan ở xã Võ Liệt Thanh Chương: Tú Tài Phan Văn Từ, trước sinh con gái tên Đoan, hiệu bà Tú Đoan, sau sinh con trai tên Phan Văn Đạo lại hiệu bà Tú Đạo, anh của Tú tài Phan Văn Từ là Tú Tài Phan Văn Nghệ, em của Tú Tài Từ là Tú Tài Phan Văn Phổ. Con Trai Văn Đạo theo sở học, thi nhiều lần chưa thỏa ý, Nay 2 con trai đang theo học.
7, Đời thứ 7 trưởng chi
Con trai trưởng của cổ Lãng làm trưởng chi.
- Đời thứ 7 trường hiệu ông can Đồ húy Nguyễn Sĩ Khâm - là con trưởng của cố Lãng, cháu trưởng của Can Mậu. Năm Minh Mệnh Sĩ Khâm đậu Tú tài khoa thi ất dậu 1825, kiêm làm bốn xã Điển ước, Thọ 73 tuổi, Mộ táng tại Núi thòi Lòi, giỗ 27/9.
- Đời Thứ 7 trưởng hiệu bà Can Đồ, húy Nguyễn Thị Lý, là con gái Tộc Nguyễn Nhơn thôn Xuân Dương, Thọ 79 tuổi, giỗ ngày 27 tháng 7.
Thụy:
+ Tiền Ất Dậu Khoa Tú Tài, Kiêm bổn xã Điển ước đăng lão thọ Nguyễn Mạnh công, Tự viết Kính; Thụy Trung chánh phủ quân.
+ Tiền ất Dậu khoa Tú tài, kiêm bổn xã Điển ước, Đặng Lão Thọ Nguyễn công chánh thất, nguyễn Thị hàng nhất, Tự Cư gia hiệu Trinh thục.
Sinh hạ: Trưởng thành hưởng thọ 3 trai 2 gái.
+ Trưởng húy Truyền, Tự Nguyễn Sĩ Phùng, sinh con trai trường tên Hưng; sau làm phó lý Trưởng tên Tôn nên xưng người cha hiệu ông Nho, lại có hiệu ông Tôn, Thọ 73 tuổi rõ ở phần sau.
+ Thứ Nam húy Bửu, Tự Nguyễn Sĩ Liễn, Tổng Giáo của bổn tổng, lại có con rể tên đồ Tĩnh nên có hiệu Tổng giáo Tĩnh, thọ 69 tuổi, ghi rõ ở phần sau.
+ Thư thứ Nam húy Nguyễn Sĩ Hợp, Theo con rể có tên Đồ ngũ; Hiệu ông Ngũ, ghi rõ ở phần sau.
7, Đời thứ 7 Chung Trưởng chi chi 2.
- Đời Thứ 7 hiệu ông Can Xuân, huý Nguyễn Sĩ Điếu - là con trai thứ 2 của cố Lãng, là em ruột của Tú Tài can Đồ. Triều Minh Mệnh đô khoa thì Tú Tài năm Tân Mẹo 1831, thọ 86 tuổi.
- Đời thứ 7 hiệu Bà Can Xuân húy ……là con gái của Tộc Văn Đình thôn Văn Giai.
- Bà Kế huý Trọng, là con gái tộc lê thôn phước An.
Thụy:
+ Tân mẹo khoa Tú tài kiêm bổn tổng hội Điển ước hiệu Thân Kỳ Nguyễn ủy Lang, tự Khổng Bình, Thụy Trung chánh phủ quân Tiên Linh.
Sinh hạ:
+ Trưởng Nam húy Thới (Thái), tự Nguyễn Sĩ Hòa, cưới vợ là con gái út của quan viên phụ Nguyễn Đình Tích thuộc tộc Nguyễn Đình ở thôn Văn Giai, là em ruột của ông Tri tên Châu-Huyện Tri Huyện Tú Tài Nguyên Đình Thân.
Sinh 2 gái 1 trai.
+ Thứ Nam húy Cảo, tự Nguyễn Sĩ Thuyên, cưới vợ là con gái của cố Tổng Khôn thuộc tộc Nguyễn Đình ở thôn Văn Giai; Sinh 3 con trai, thọ 66 tuổi,
+ Trai thứ 3 húy Vơn, Tự Nguyễn Sĩ Vẹn, có vợ sinh 1 con trai tên Sĩ Ưu, Sĩ Vẹn chết trẻ vợ ông Cải giá tại tổng Đại Đồng nay hiệu Đồ Song - Sinh hạ con cháu đông đúc.
+ Nghĩa Tử húy Hoạt - Nguyễn Sĩ Duộng, Theo họ Nguyễn Sĩ, Sinh trưởng Nam Sĩ Đối, hiệu ông cố Đối nay ngoài 80 tuổi, có vợ Sinh hạ, ghi rõ ở phần sau,
Tú Tài hiệu Can Xuân là người đa trí làm việc có ích có kế hoạch, lại đọc rộng hiểu nhiều kinh sử.
Có thời danh tiếng Tiên Tổ dòng phó bảng Nguyễn Sĩ của tôi làm vang lừng như câu đối còn lưu lại nơi Tổ Đường Rằng: "Bạch Địa Triệu cơ, Lễ nghĩa Canh Vân Tam Đợi Thượng, thanh vân Đắc Lộ Thi Thơ Đăng Hỏa thập niên Lai.”
(Tạm dịch nghĩa: “Đất Trắng” gây nền lễ nghĩa. -cày cấy đã từ trên 3 đời trước, công danh vững bước thi thơ đèn sách Liên tiếp 10 năm lại đây.). Đó là câu đối do ông can Xuân soạn.
7, Đời thứ 7 theo chi Trưởng chi thứ 3 -
-Đời Thứ 7 hiệu ông cố Nhơn; húy Nguyễn Sĩ Quyến, là con trai thứ 3 của cố Lãng, là em ruột của Tú Tài can Đồ - Tú tài can Xuân, ông là Biền Binh thư lại về hưu, thọ 78 tuổi.
- Đời thứ 7 hiệu bà cố Nhơn húy.... .... là con gái cố Đạt - Tộc võ trong thôn
Thứ thất người thôn Xuân Dương sinh hạ Sĩ Oai (uy)
Thụy: +
Sinh hạ
+ Trưởng Nam Nguyễn Sĩ Minh; theo tên con có hiệu Chương, Thọ 61 tuổi, cưới vợ tại quảng xá
Sinh 3 nam: Xướng, Đản, Bồi
+ Thứ Nam Nguyễn Sĩ Oai (Uy) do vợ thứ sinh; cưới Vợ người xã Tràng các, nay thọ ngoài 80 tuổi; giữ chức Hương thủ chỉ hiệu ông Khương, Sinh hạ Trưởng Nam Khương; thứ Thành, Thứ 3 Thịnh; Thứ 4 Tĩnh, út nam Sĩ.
+ Thứ Nam Nguyễn Sĩ Chí - Hiệu ông Trưởng,
Sinh 2 con trai: Vũ, Sủng
- Cố Nhơn lúc nhỏ theo sở học, lớn đi lính được trao chức Thư lại, duy có điều ông rộng rãi không theo thói tục - rất ham uống rượu ăn nhậu, mỗi lần uống chẳng thể bao nhiêu cốc đến say mới thôi, ngày nào ông cũng đem 1 quan tiền ra chợ mua rượu uống hết say mới về nhà, do say rượu suốt ngày nên sức khỏe ông càng yếu dần, năm 70 tuổi tuổi ông qua đời, trong khi làm lễ tang, bà khoát tay lôi ra một bình rượu, vừa hành lễ vừa uống; vừa khóc, vừa cười cũng hào phóng giống như ông lúc còn sống. Đến răm 78 tuổi bà mệnh chung, bổn thôn phúng điếu bà bằng 1 cặp liễn đối rằng: " số bôi cộng chước bằng tam thọ, nhất trích hà tằng đáo cửu nguyên”. (Tạm dịch nghĩa: số ly cộng rót bằng Tam thọ (thượng thọ), một giọt sao thêm đến 90 chín mươi (tuổi). cũng là trái nghiệm uống rượu hào sảng vậy.
7, Đời thứ 7 Theo chi Trưởng - chi thứ 4.
- Đời thứ 7 hiệu ông cố Chung - Nguyễn Sĩ Toản, húy Chế là con thứ 4 của cổ Lãng, là em ruột của can Đồ, can Xuân; cố Nhơn, Thọ 70 tuổi, được tặng “Khâm mông ân tứ thọ dân". (được Vua ban ơn chúc thọ).
- Đời thứ 7 hiệu bà cố Chung, huý...
Sinh hạ 2 trai, 3 gái
+ Trưởng Nam Nguyễn Sĩ Hiền, hiệu ông Lành.
+ Thứ Nam Nguyễn Sĩ Hậu; hiệu ông Liêm.
+ Con gái có chồng Lý Trưởng Nguyễn phùng Quế ở thôn Thượng Thọ, hiệu Mụ lý quế,
+ Con gái có chồng về xã Võ Liệt, hiệu bà Giảng.
+ Con gái có chồng Nho Khuê, hiệu bà Nho Khuê ở xã Quảng Xá,
Thứ Thất:
Sinh 1 con gái có chồng hiệu Nho Trốn là con trai trưởng của cố Hàn trong thôn, nay hiệu Mụ Toản sinh 1 con trai tên Thêm tảo một.
Thứ Thứ Thất: Sinh 5 trai còn 3. -
+ Nguyễn Sĩ Lương
+ Nguyễn Sĩ Văn
+ Nguyễn Sĩ Chất
7, Đời thứ 7 theo chi Trưởng chi thứ 5.
- Đời Thứ 7 Hiệu ông cố Sùng húy Phù, Nguyễn Sĩ Nghĩa là con trai thứ 5 của cố Lãng, là em ruột của can Đồ, can Xuân, Cố Nhơn; Cố Chung, Thọ 60 tuổi.
- Đời Thứ 7 Hiệu Bà cố Sùng; húy: … là con gái Tộc Nguyễn Nhơn - Thôn Xuân Dương.
Sinh hạ: đầu tiên 2 gái: 1 hiệu bà Cai Sùng 1, hiệu bà Khuê. Kế Thất
+ Trưởng Nam Nguyễn Sĩ Khoát
+ Thứ Nam Nguyễn Sĩ Đạt
+ con gái đầu có chồng người Tộc Nguyễn thôn Thượng thọ hiệu ông Cai Sùng - Mụ cai Sùng sinh hạ con cháu nối dòng đông đúc.
+ con gái thứ có chồng Nguyễn Phùng Vũ là con trai thứ của cố Phạn ở thôn Thượng Thọ hiệu Mỵ Khuê - sinh trai gái nối dòng đông đúc.
Vợ kế sinh hạ 5 con gái
7, Đời thứ 7 chi cố Thùng
- Đời thứ 7 hiệu ông cố Khôn húy Hoảng –Nguyễn Sĩ Quảng là con trai trưởng của cố Thùng. húy Nguyễn Sĩ Thanh, lại có hiệu ông can Phan; Thọ 86 tuổi - Hương Thủ Chỉ,
-Đời thứ 7 Hiệu bà cố Khôn; húy Bùi Thị Ư, là con gái Tộc Bùi thôn Xuân Bảng, thọ 70 tuổi.
Sinh hạ 2 trai, 5 gái.
+ Trưởng Nam Nguyễn Sĩ Dật, Cưới vợ là con gái trưởng của Cố Trú Phòng Tộc võ trong thôn, bà là em em gái của Thọ quan Tú tài Nguyễn Văn Đỉnh, Nay bà thọ 88 tuổi, Sinh 1 Con trai Nguyễn Sĩ Xán - ghi rõ ở phần.
+ Thứ Nam Nguyễn Sĩ Chẩn, cưới vợ là con gái tộc Bùi ở thôn Xuân Bảng hiệu bà Trung; Sinh 1 trai 2 gái, con trai Nguyễn Sĩ Trung có vợ sinh 1 con gái, Sĩ Trung yểu một phạp tự.
+ Con gái có chồng người Tộc Võ ở xã Xuân Bảng thôn Phước An, hiệu bà... Sinh con gái, không có trai phạp tự.
+ Con gái có chồng Tộc Bùi ở thôn Xuân Bảng hiệu bà cố Ý, thọ 83 tuổi, sinh hạ ông Ý; Sĩ Phong; Sĩ Huy-con cháu nối dòng đông đúc.
+ Con gái có chồng tộc phan trong thôn hiệu bà cố Lương, Sinh hạ Phan Lương; Phan Nhượng, con cháu nối dòng đông đúc.
+ Con gái có chồng Tộc Bùi ở thôn Xuân Bảng hiệu bà cố Ngoạn, Thọ ngoài 80 tuổi, sinh hạ Bùi Thảy, Bùi Thống, Con cháu nối nói đông đúc.
+ Con gái có chồng Tộc Nguyễn Duy ở thôn Xuân Bảng hiệu Bà Sương, sinh con gái - không có con trại, phạp Tự.
7, Đời thứ 7 chi 2 của cố Thùng
- Đời thứ 7 hiệu ông cố Cai, húy Trạnh, Nguyễn Sĩ Trịnh; hiệu cố Miến, là con trai thứ 2 của cố Thùng, Đi lình được cấp bằng Đội Trưởng, Thọ 66 tuổi, trước có hiệu cố Cai Duy, sau lấy hiệu theo tên con gái Cố Miễn,
- Đời Thứ 7 hiệu bà Cố Cai, húy Bùi Thị Út, là con gái Tộc Bùi thôn Xuân Bảng. Sinh hạ: 4 con trai còn 3, 3 con gái đều trưởng thành có chồng con.
+ Trưởng nam Nguyễn Sĩ Đường; huý...... trước có hiệu ông Nhiêu Đầu, ông có vợ sinh 1 con gái có chồng người cùng thôn tên Thư Tôn (Thư lại Tôn), Sĩ Đang chết trẻ.
+ Thứ Nam Nguyễn Sĩ Bảng
+ Nam Thứ 3 Nguyễn Sĩ Toại
+ Nam Thứ 4 Nguyễn Sĩ Thới (Thái)
+ Trường Nữ có chồng người tộc Nguyễn Trọng ở cùng. thôn; hiệu mụ Miến sinh 2 con trai, con cháu nối dòng.
+ Thứ Nữ lấy chồng người tộc Nguyễu phùng ở thôn xuân Dương; hiệu mụ Thặng sinh 4 con trai, con cháu nối dòng.
+ Thứ thứ Nữ có chồng là con trai của cố Nhất Đạt trong cùng thôn tên xã Huấn; hiệu cố Chí nay 80 tuổi vẫn còn, Mụ xã Huấn hiệu bà Chí đã mất.
7, Đời thứ 7 chi thứ 3 của cố Thùng
- Đời thứ 7 hiệu ông cố Đang - húy Nguyễn Sĩ Hĩnh, là con trai thứ 3 của cố Thùng, là em ruột của can Phan-Cố Miến, thọ 86 tuổi - Hương thủ chỉ.
- Đời Thứ 7 hiệu bà cố Đang; húy Nguyễn Thị Tranh, là on gái thứ của cố Sanh, Tộc Nguyễn cùng thôn.
Sinh hạ
+ Trưởng Nam Nguyễn Sĩ Bổn - Sinh nữ vô nam.
+ Thứ Nam Nguyễn Sĩ Quang - Sình nữ vô nam.
7. Đời thứ 7 chi nhận từ trên cố Dụng
- Đời thứ 7 hiệu ông cố Trợ, húy Gián, trước có hiệu ông Tản là con trai thứ 3 của cố Dụng là em của Sĩ Đoan; Sĩ Truyền, Sĩ Đoan; Sĩ Truyền phạp tự, cố Trợ Thọ 78 tuổi.
- Đời thứ 7 hiệu bà cố Trợ; húy.... là con gái của tộc Nguyễn Trí trong thôn, bà thọ 90 tuổi,
Sinh hạ 4 trai-2 gái
+ Trưởng nam húy Trâm, Nguyễn Sĩ Tản, trước có hiệu từ Tản, Nay cũng có hiệu cố Trợ - Thọ 79 tuổi.
+ Nam thứ 2 Nguyễn Sĩ Trưởng; hiệu ông Các, 70 tuổi.
+ Nam thứ 3 Nguyễn Sĩ Nhàn; hiệu ông Nhã, thọ 66 tuổi.
+ Nam thứ 4 Nguyễn Sĩ Xuyến, thọ 69 tuổi.
2 người con gái.
+ Gái trường lấy chồng người tộc Nguyễn Văn trong thôn: Nguyễn Văn Thức hiệu ông Lượng, thọ ngoài 80 tuổi, bà Lượng thọ ngoài 70 tuổi, sinh 2 con gái, 2 con trai: Trưởng tên Lượng; thứ tên Thản.
+ Gái thứ lấy chồng tộc Bùi ở xuân Bảng
7, Đời thứ 7 chi nhận theo cố Ái
- Đời Thứ 7 hiệu ông cố Huệ húy Nguyễn Sĩ Tráng là con trai trưởng của cố Ái.
- Đời thứ 7 hiệu bà cổ Huệ húy Bùi Thì... là con gái. Tộc Bùi thôn xuân Bảng.
Sinh hạ 4 con trai còn 2.
+ Trưởng Nam Nguyễn Sĩ Huệ, cưới vợ là con gái của Cố Hào ở Xuân Bảng
+ Thứ Nam Nguyễn Sĩ Hựu, đi lính nhận chức Biện Lại nên có hiệu Biện Hựu.
- Ông Khải húy Sĩ Duẫn là con trai thứ của cố Ái, Thọ 70 tuổi.
- Bà Khải; húy Nguyễn Tthi...., Người Tộc Nguyễn cùng thôn
Sinh hạ
+ Trưởng Nam Nguyễn Sĩ Khải
+ Thứ Nam Nguyễn Sĩ Lược.
7, Đời thứ 7 Trưởng chi - chi nhận theo cố Hóa.
- Ông Thuật húy Nguyễn Sĩ Cả (Cơ) là con trưởng. của Cố Hoá - Sĩ Ngũ, là cháu Trưởng của can Trị, làm bổn xã Nho Trưởng Đăng lão Nhiêu - Thọ 74 tuổi.
- Bà Thuật huy Phan Thị Huyên, là con gái Tộc Phan xã Tràng Các, thọ 86 tuổi.
Sinh hạ: 6 con trai còn 3, còn có 1 con riêng trước có tên Xã Nghiêm, Thọ ngoài 70 tuổi; hiệu cố Lư vô nam phạp tự
+ Trưởng Nam Nguyễn Sĩ Tuyển, hiệu ông Cố Đoá hưởng thọ 76 tuổi.
+ Trai thứ Nguyễn Sĩ Chư
+ Trai thứ 3 Nguyễn Sĩ Ngữ; đã cưới vợ chưa có con, chết trẻ.
+ Trai thứ 4 Nguyễn Sĩ Khang, Theo sở học lớn chưa vợ chết yểu.
+ Trai thứ 5 Nguyễn Sĩ Trắc đi lính; chưa cưới vợ - chết trẻ,
+ Trai thứ 6 Nguyễn Sĩ Bồi.
- Ông Đài huý Nguyễn Sĩ Lân, là con trai thứ của cố Hóa - Sĩ Ngũ, là em ruột của cố Thuật - Sĩ Cả, sanh con trai tên Lầu nên có hiệu Lầu; Sau xưng theo tên cháu Đài nên có hiệu Cố Đài - Thọ 60 tuổi.
- Bà Đài húy Nguyễn Thị.... là con gái Tộc Nguyễn trong thôn.
Sinh hạ
+ Con trai Nguyễn Sĩ Lầu, cưới vợ là em của ông Cai Tuần tộc Nguyễn Phúc ở thôn Xuân Dương. -Sinh hạ trưởng nam tên Đài nên có hiệu ông bà Đài
7, Đời thứ 7 chi cố Đạm
- Ông Cói húy Ngưu - Nguyễn Sĩ Đạo; là con trai trưởng của cố Đàm - Sĩ Biểu, cưới vợ là con gái Tộc Bùi ở Thôn Xuân Bảng - húy Bùi thị...Hiệu bà cói.
Thụy:
+ Tổ Bá Tiền Thập Lý Hầu Kiêm Trùm Trưởng Đăng Lão Hạng Đệ nhất Lang tự Nguyễn cử Tiên linh.
+ Tổ Bá Tiền Thập Lý Hầu kiêm Trùm Trưởng Đăng Lão Hạng Nguyễn công chánh Thất Bùi Thị hàng Tam Tiên Linh.
Sinh hạ:
Sĩ Cát thọ, Sĩ Ưng trung yểu, Sĩ Ý trung yểu, Sĩ Tư tảo một
+ Trưởng nam Nguyễn Sĩ Cát, hiệu ông Nhường, Thọ ngoài 70 tuổi, cưới vợ con gái Tộc phan xã Tràng Các, hiệu mụ Nhường; sinh hạ Sĩ Nhường, Nhường có vợ sinh 1 con trai chết non - phạp Tự. Nay thứ tôn Sĩ Đản phụng thờ.
- Ông Thạch húy Nguyễn Sĩ Tạo; là con trai thứ của Cố Đạm - Sĩ Biểu, cưới vợ con gái Tộc Nguyễn Duy Xuân Bảng hiệu bà Cố Thạch.
Thụy + Tiền Thập lý Hầu Kiêm Trùm Trưởng Ân Tứ Lão Hạng Nguyễn Nhị Lang tự Học chi Tiên linh.
+ Tiền Thập lý Hầu Kiêm Trùm Trưởng Ân Tứ Lão Hạng Nguyễn công chánh Thất Nguyễn Thị hàng nhị Tiên linh.
Sinh hạ 4 trai, 1 trai nối đời - 3 nữ điều thành gia thất.
Truy nối đời, Trác phạp tự, Chấp trung yểu, Tác trung yểu.
+ Trưởng Nam húy Truy - Nguyễn Sĩ Từ, hiệu ông Hạ, cưới vợ là con gái thứ của cố Ổn - Tộc Lê ở Đại Đồng nhập bộ thôn Viên Ngoại, hiệu Mụ Hạ, Thọ 70 tuổi, sinh hạ 4 trai: Hạ trưởng, Thường thứ, Lộc thứ 3, Liên thứ 4.
+ Thứ nam húy Trác - Nguyễn Sĩ Đấu, có vợ đã sinh 2 con trai chết non phạp tự.
+ Nam Thứ 3 Nguyễn Sĩ Chấp trung yểu.
+ Nam thứ 4 Nguyễn Sĩ Tác trung yêu đều phạp tự.
+ Trưởng nữ có chồng cùng Thôn hiệu Mụ Sinh 2 nữ 1 nam.
+ Thứ Nữ có chồng về thôn xuân Bảng hiệu ông bà Cô Hào, Sinh trai gái.
+ Thứ thứ Nữ có chồng Tộc Nguyễn trong thôn, hiệu ông Điền Dư bà Điển Dữ, sinh 1 trai tên Trịch, con cháu nối nói động đúc
- Ngũ Trưởng Niệm húy Nguyễn Sĩ Toại là con trai út của Cố Đạm-Sĩ Biểu, đi lính nhận chức ngũ trưởng; cưới vợ sinh 1 trai húy Sum, Trưởng niệm bị chết chìm, vợ ông có chồng khác.
Sinh hạ: 1 trai húy Sum; hiệu ông xã Hạnh, cưới vợ là em gái ông Tuần Thể người họ võ trong thôn; Hiệu bà xã Hạnh Sinh 2 trai-2 gái.
2 trai: Sĩ Long, Sĩ Đản (Đởn).
7, Đời thứ 7 chi Cố Khuê
- Ông Kính húy Nguyễn Sĩ Túy là con trai thứ của Cố Khuê, cưới vợ con gái Tộc Nguyễn Trí cùng thôn hiệu bà Kính - Thọ 69 tuổi.
Sinh hạ 2 con trai.
+ Trưởng nam Nguyễn sĩ Niên; có vợ sinh 1 trai tên Xan, vợ chết trẻ, ông Niên có hiệu ông Xan, thọ 63 tuổi.
+ Thứ nam Nguyễn Sĩ Tộ.
- Ông Xứ Nguyễn Sĩ Thấu là con út của cố Khuê, cưới vợ là con gái tộc Nguyễn Võ trong thôn; hiệu Bà Xứ - Thọ 70 tuổi.
Sinh hạ con trai húy Trọng-Nguyễn Sĩ Hồ, Hồ cưới vợ là con gái thứ của ông Cai Kiệm tộc Phan cùng thôn hiệu Mụ xã Hồ sinh 1 con trai tên Sĩ Phú, Phú cưới vợ là cháu của Tú Thể thuộc tộc Nguyễn võ trong thôn.
7, Đời thứ 7 chi ông Cụ
- Bá thị hiệu ông Phục húy Nguyễn Sĩ Ngươn (Nguyên), Tự Doãn Đức, là con trai thứ của ông Cụ, Là cháu Thứ của can Trị, vai kế làm trưởng, Thọ 61 tuổi, giỗ ngày 28 tháng 8.
- Bá Thị hiệu Bà Phục huý Nguyễn Thị Đính, Là con gái của Nguyễn Hữu Công thuộc tộc Nguyễn thôn Kỳ La; giỗ ngày 22 tháng 24.
PHẦN MỘ: Bá Thị Song Mộ, Nay Song cải Táng tại bổn thôn Thòi Lòi núi chì bên phải - Đông Bắc Hướng, gần chỗ mộ ông Cụ.
Thụy:
+ Tiền lịch khoa thí sinh Dự văn Hội Đăng ky Thọ Nguyễn Bá Thị tự Doãn Đức đệ nhất hàng tiên linh.
+ Tiền Lịch Khoa thi sinh Dự Văn Hội Đăng Kỳ Thọ Nguyễn Bá Thị chánh Thất Nguyễn thị hàng nhất tiên linh.
Ngã Bá Thị tự Doãn Đức, Tánh nghiêm nghị, Tề gia nghiêm minh quyết đoán, học thông kinh sư nhiều lần thi không đậu, có ý chí kiên quyết do đó sang học rộng sách thuốc để trị bệnh, một thời nổi danh.
Sinh hạ:
+ Trưởng nam húy Cư - Nguyễn Sĩ Dao, người được có Trường làng trong xã khen ngợi nhất, Nay 70 tuổi.
+ Thứ Nguyễn Sĩ Phan, theo sở học, chết ở tuổi trung niên.
+ Trường Nữ Nguyễn Thị Phục, có chồng người xã Tràng Các tên xã Phổ, sinh 1 con gái - Không có con trai, vợ chồng đều chết - phạp tự.
+ Thứ nữ Nguyễn Thị Toàn, có chồng là con trai của cố Tương tộc Nguyễn Trọng cùng thôn tên Trịch; hiệu mụ Trịch sinh 2 gái 1 trai: Con trai tên Bình cưới vợ là Con gái ông Hoàn cùng thôn, 1 con gái có chồng là con trai ông Điển cùng thôn, 1 con gái có chồng là con trai của viên Tài cùng thôn.
+ Con gái thứ 3, Nguyễn Thị Toan, có chồng là lon trai của ông Lý quế tộc Nguyễn Phùng thôn Thượng Thọ tên xã Thường; Mụ thường sinh con trai gái.
+ con gái thứ 4 Nguyễn Thị Đào, có chồng là con trai thứ của cố xoa cùng thôn, tên Xã Tải sinh gái Không có trai, bà Đào chết chồng từ rất trẻ, nay phạp tự.
+ con gái thứ 5 Nguyễn Thị Liễu, có chồng là con trai của cố Viên Thuật cùng thôn tên Đỗ Nguyệt, mụ Nguyệt sinh nữ vô nam.
- BÁ Thị (Bác họ) quan Thị Giảng phó Bảng Nguyễn Sĩ Ấn; Tự Tín Trọng; là con trai thứ 3 của ông Cụ
khoa cử nhân năm quý mão (1843) (Sĩ Ấn) đậu hàng thứ 6, khoa Hội năm giáp thìm 1844. ông đậu phó Bảng làm quan tới chức Thị Giảng Viện Hàn Lâm, khi mất ông 40 tuổi, ông sinh năm Mậu dần 1818. tháng tư - ngày 20- giờ thân, Mất năm Đinh Tỵ 1857-Tháng giêng ngày 19. Nay Mộ cải táng tại trong thôn núi Thòi Lòi - Mạch khởi đỉnh tại Cấn, chuyển 1 nhánh rang bên phải đổi thành mạch hợi; lại chuyển hướng Tân duỗi xuống đúng huyệt táng: Tọa - Tân hướng ất kiêm dậu mẹo, lấy núi Thòi Lòi sơn cấn Đỉnh làm nội Án, lấy cồn ổ làm ngoại Án. giỗ ngày 19 tháng giêng.
- BÁ Thị (Bác Họ) vợ chánh quan Thị Giảng húy Nguyễn Thị Táo; là con gái nhà quan Tộc Nguyễn Phùng ở thôn Thượng Thọ, Cha tên húy Nguyễn Phùng Hiển - Hiệu Cố Cụ Khuông, Mẹ bà là người Tộc Nguyễn Nhơn thôn Xuân Dương, tên húy Nguyễn Thị Phán - Hiệu bà cụ Khuông, quan Hàn húy Phát là em ruột của bà Táo. Bà sinh năm Tân Tỵ 1821, mất năm giáp thìm – Thành Thái thứ 16 1904 - tháng 8 - ngày mùng 4, thọ 85 tuổi. Nay Mộ cải táng tại núi Thòi Lòi; Đỉnh thừa cấn mạch; Tọa quý hướng Đinh (Đầu ghé bắc chân hương ghé Nam). giỗ ngày mùng 4 tháng 8.
Thụy: + Tiền Đại Nam giáp Thìn hội khoa phó Bảng cáo Thụ phụng Thành Đại phu Hàn lâm viện thị giảng Xuân Viên Nguyễn Nhị Công tự Tín Trọng Thụy Đoan Thận.
+ Tiền Đại Nam giáp Thìm hội khoa phó Bảng. Cáo Thụ phụng Thành Đại phu hàn lâm viện thị giảng xuân viên Nguyễn công chánh thất Nguyễn Thị hàng nhất Đăng Lão Mao thọ nghi nhân.
CẨN THUẬT LÝ LỊCH BÁ THỊ: Bác Họ tôi sanh tiền thụ nghiệp tại xã Tràng Các – Cụ Đề tú tài Phan húy Đăng Qũy Tiên sinh, Sau thụ nghiệp ở xã Võ Liệt quan cụ cử nhân Phan Đình húy Lệ Tiên sinh.
Năm ông 20 tuổi khoa thi Đinh Dậu 1837 đỗ Tú Tài, năm 25 tuổi Ân khoa Nhâm Dần 1842 lại trúng Tú. Tài, khoa cử nhân năm quý mão 1843 đứng danh thứ 6, khoa thi Hội năm giáp thìm 1844 Trúng phó Bảng, bước đầu được bổ nhiệm vào Hàn lâm Viện Kiểm Thảo, Thiệu Trị năm thứ 6 (1845) ông được bổ làm Trì huyện huyện Kim Thành; được 1 năm đổi bổ làm Trì huyện huyện Bố Trạch, năm 31 tuổi được phụng sung làm phúc khảo ở trường Hà Nội, Năm Tự Đức Nguyên niên (1848) được thăng chức làm trì phủ phủ Kiến Thụy, Năm Tự Đức thứ 5 1852 khi ông 34 tuổi được thăng chức làm Hàn Lâm Viện Thị Giảng, Năm Bích Thìn 1856 trong kỳ Thì Hội ông được phụng sung làm Đồng Khảo Đình cử Án sát, Năm Đinh Tỵ 1857 ông cáo bịnh và mất ngày 19 tháng giêng
* PHỤNG SAO SẮC VĂN, CÁO TRỤC - Cộng 4 Đạo
Sắc Giáp Thìn Hội khoa thi phó Bảng Nguyễn Sĩ Ấn, quán Nghệ An tỉnh - Anh Sơn phủ - Nam Đường huyện - Xuân Lâm tổng - Xuân Lâm xã: Học thuật sảo Trường, danh đăng phó bảng, Tư chuẩn nhĩ bổ Thụ Hàn Lâm kiểm Thảo, Tòng cai quản viên phụng hành công vụ, Nhược khuyết chức phất Kiền, minh chương cụ tại khâm Tai
Thiệu Trị Ngũ Niên, sắc Mệnh chi Bửu, Tam nguyệt Thập thất nhật (17/3/1844).
© Thừa Thiên Hưng vận Hoàng Đế sắc viết: Học ưu tắc sĩ tư quân Tử chỉ bổn tâm, quan Duy Kỳ nhân Nãi quốc gia chỉ thường Điển, Nhĩ Hàn Lâm Viện kiểm Thảo Nguyễn Sĩ Ấn: Tài năng khả lục, Hạnh kiểm túc quan, Tạng Tu gia đôn tố chi công bất vẫn quyết, vấn xu phó Đốc, Thừa Hưu chi nguyện, Hữu phục tại tiêu. Từ đặc thụ Văn Lâm Lang Bố Trạch huyện Tri Huyện, Thượng khả phụng hành khác địch: ư quan thường thù dị xước ưu, ư chánh thường mẫu thế trẫm mệnh Tướng thí.
Nhĩ năng khâm tại.
Thiệu Trị lục niên - Sắc Mệnh Chi Bửu – Nhị nguyệt thập nhất nhật (11/2/1845).
Thừa Thiên Hưng vận Hoàng Đế Sắc Viết: Học ưu tắc sĩ tư quân Tử chỉ bổn Tâm, quan duy Kỳ nhân nãi quốc gia chi thường điển. Nhĩ Bố Trạch Huyện Tri Huyện Nguyễn Sĩ Ấn: Tài năng khả lục, Hạnh kiểm túc quan, tạng tu gia Đôn tố chi công bất vẫn quyết. Vẫn xu phó Đốc Thừa Hưu chi Nguyện, Hữu phục tại Liêu, Tư Đặc Thụ thăng Thừa vụ lang Kiến Thụy phủ Đông Tri phủ. Thượng Kỳ phụng khác địch, ư quan Thường Thù dị xuất ưu, ư chánh tích mẫu thế Trẫm mệnh tướng Thí. Nhĩ năng khâm tai.
Tự Đức Nguyên niên - sắc Mệnh chỉ Bửu - Lục Nguyệt - sơ cửu nhật (9/6/1848)
Thừa Thiên Hưng vận Hoàng Đế chế viết: Trẫm duy lập chánh; Dụng nhân nghi cử, khảo công chi Điển, lượng tài định vị, dụng tinh Trị sự chỉ năng. Tư Nhĩ Kiến Thụy phủ Đồng tri phủ Nguyễn Sĩ Ấn: Văn Học Túc quan, Tri phủ Nguyễn Sĩ Ấn tài khí khả thủ, hữu hiến hữu vi, hữu vi hữu hhủ, chính thuật Du nghi, viết thánh. viết thận viết cần, quan châm thị Địch, cán Mẫn tuân kham, Để tích minh Dương, nghi giản tại Đình. Tư đặc Thăng Thụ phụng thành Đại phu Hàn Lâm viện thị Giảng sung sử quán biên Tu tích chỉ cáo Mệnh. Thượng Kỳ vô khoáng quyết ty miễn giảm, cần ư siêu sự Thức khâm thành mệnh, Vĩnh vô dịch ư Thừa Hưu khâm Tại. Tự Đức ngũ niên - sắc mệnh chỉ Bửu - Nhị nguyệt nhị Thập thất nhật (27/2/1852).
Sinh hạ: Trước 3 nữ. Sau 1 Nam.
Thứ Thiếp - Người tộc Nguyễn Xuân Dương, sinh 1 gái
Thứ Thứ thiếp là con gái Tộc Nguyễn Phùng Thượng Thọ, Sinh 1 con gái.
+ Trưởng Nữ Nguyễn Thị Thượng, do sinh ở Thượng Thọ nên lấy chữ Thượng làm tên, có chồng là người. Tộc phan Đình võ liệt: Nhị Khoa Tú Tài Phan Đình Túc, là con trai út của quan cụ cử nhân Phan Đình Lệ, là em Ruột của Phó Bảng nguyên Biện lý Phan Hoè Am. Nay ngoài 80 tuổi; hiệu ông Tú, bà Tú nay ngoài 70 tuổi, ông bà Song Thọ Sinh 5 gái - 1 Trai, các con đều nên ra thất, Con Trai phan Nhiếp có vợ sinh 1 nữ 2 nam.
+ Thứ nữ Nguyễn Thị Trạch, chết non - giỗ 21/2.
+ Thứ Thứ Nữ Nguyễn Thị Thụy; do sinh tại phủ Kiến Thụy nên lấy tên Thụy; có chồng người xã Xuân Hồ - Nguyễn Đình Thức, là con trai của cử nhân quan Tri phủ Nguyễn Đình ... • Ông bà sinh hạ 5 trai 1 gái: Trưởng Nam Nguyên Phùng Hưng - Năm Tân mẹo đậu Tú Tài; ; khoa cạnh Tý đậu cử nhân, khoa thi Hội năm Tân sửu đỗ Tam giáp Trến sĩ, cha (của ông Hưng) ông cụ đã qua đời, Mẹ hiệu bà Cụ nay ngoài 60 tuổi.
+ Nam Nguyễn Sĩ Khanh, đổi tên Nguyễn Sĩ Trết, Tự khả Trinh, Hiệu Trúc Hiên chủ nhân, cưới vọ Phan Thị Nhiên là con gái trưởng người họ Phan ở Thanh Chương - Võ Liệt xã có cha huý Phan Sĩ Thục là Tiến Sỹ Tam giáp khoa Kỷ Dậu, từng làm đên Tham Trì Tuân phủ được phụng Sung nhà Thanh chính Sứ (sứ giả nhà thanh), Thọ 70 tuổi, bà Nhiên có mẹ hiệu bà Trai, huý Nguyễn Thị Nước; người thôn thanh chữ, cha bà Trai là Hải An Đạo
Ngự sử cử Nhân Hoàng Nho Nhã. Sĩ Khanh phốc Phan Thị Nhiên nay song thọ, sinh hạ 5 trai 4 gái ghi rõ ở phần sau: Giản Trưởng nam đã trúng Tú Tài, Triện Thứ Nam, Quân (Duân) nam thứ 3, Trâm nam thứ 4, Lạng (Lượng) nam thứ 5.
Thứ Thiếp (thiếp của Sĩ Khanh) Người tộc Nguyễn Nhơn Xuân Dương: sinh 1 nữ Thị Thành, Mẹ (Thị Thành) cái giá, Thị Thành do bà thứ thiếp sở sanh, có chồng người tộc Nguyễn Đình thôn Văn Giai là con trai của cố Tú Cự có tên Nguyễn Đình Phiên; Sinh 3 con gái không có trai.
Thứ thứ Thiếp (của Sĩ Khanh) là con gái tộc Nguyễn Phùng thôn Thượng Thọ, con gái thứ của Nguyễn Quốc Bửu, hiệu bà Dực thọ 75 tuổi, sinh 1 con gái tên Thị: Nguyễn Thị Thị (do bà Dực sinh) có chồng người xã Võ Liệt, là con trai của ông Tuần phủ Phan (Với bà thứ thiếp) có tên Phan Xưởng, sinh 1 trai mất sớm.
- Ông Tủ Tài Nguyễn Sĩ Rằng, húy Sạn, đổi tên Nguyễn Thúc Hoằng; hiệu Tuần Am, là con trai thứ 5 của ông Cụ (Sĩ Chấn). Vào thời Tự Đức - khoa thì Đinh mẹo 1867 ông Rằng Đậu Tú Tài, Ân khoa năm Mậu Thìn - Canh ngọ (1868-1870) đều Trúng Tú Tài.
- Bà Tú chánh thất Nguyễn Thị Dựu.
8, Đời thứ 8 theo can Đồ Trưởng chi nhận.
- Ông Tôn huý Truyền, Nguyễn Sĩ Phùng; là còn trai trưởng của Tú Tài Nguyễn Sĩ Khâm, thọ 73 tuổi.
- Bà Tôn húy Nguyễn Thị Phương; là con gái trưởng ở Tổng của Sĩ chí lang Ngự Sử Nguyễn … ở tổng Võ Liệt xã Quảng Xá, bà thọ 75 tuổi.
Thụy:
+ Tiền xử sĩ Lịch Thí Trúng Nhị Trường Kiêm văn Hội Hội Trưởng Đăng Lão Thọ Nguyễn Bá Thị huý Phùng; tự Di Bá, Thụy Nhã Trực phủ quân,
+ Tiền xử sĩ Lịch Thí Trúng Nhị Trường Kiêm Văn hội hội Trưởng Đăng Lão thọ Nguyễn công chánh Thất Nguyễn Thị hàng Nhất Hiệu cần Mẫn nhụ nhân.
Sinh hạ: 4 trai - 4 gái
+ Trưởng Nam Nguyễn Sĩ Hưng; húy..., Vi phó lý; hiệu ông Phó Tôn. Bà phó Tôn húy Nguyễn Thị Đệ là con gái út của cố Hợp Tộc Nguyễn Duy ở Xuân bảng, thọ ngoài 60 tuổi.
Thụy:
+ Tiền Học Đường khóa sinh Kỳ thụ bổn Thôn phó lý, dự văn Hội Nho Trưởng Nguyễn Mạnh lang, Tự Khả Dĩ, Thụy Hòa Bình phủ quân.
+ Tiền Học Đường khóa sình Kỳ thụ bổn Thôn phó lý, Dự văn Hội Nho Trường Đăng kỳ thọ Nguyễn công chánh thất, Nguyễn Thị hàng quý hiệu cần mẫn.
Ông bà Tôn sinh hạ 4 con trai còn 1, 3 con gái nên gia thất: Sĩ Đôn chết non, Sĩ tự chết non, Sĩ Câu chết non
. Trưởng Nam Nguyễn Sĩ Kế; cưới vợ Nguyễn Thị Yêm là con gái út của cố Sơ tộc Nguyễn Trọng Cùng thôn, sinh hạ con cháu nối dòng.
. Trường Nữ Nguyễn Thị... có chồng là con trai của cố Mỹ tộc Nguyễn võ cùng thôn tên phó Mỹ; Mụ phó Mỹ sình 1 con trai.
. Thứ Nữ Nguyễn Thị... có chồng là con trat của cố Thiện Tộc Nguyễn Trọng cùng thôn sinh 1 con gái, bà mất trước.
. Thứ thứ nữ Nguyễn Thị... Có chồng người thôn Xuân Dương, sinh hạ con cháu nối dòng.
+ Thứ Nam Nguyễn Sĩ Khoản (con của Sĩ Phùng); húy. Hiệu ông Uẩn (Huẩn), Nay ngoài 70 tuổi, cưới vợ người xã Quảng Xá, sanh 2 trai -3 gái: Trưởng Nam Sĩ UẨN, Thứ Nam Sĩ Chước.
+ Nam thứ 3 Nguyễn Sĩ Thức (Sớc); húy...; lại đổi Sĩ Tráng; Thọ 63 tuổi; trước có vợ là con gái trưởng của ông Nho Hai Oánh ở xã Võ Liệt, bà sinh hạ 1 con trai Sĩ Khác, sau ông (Thức) cưới vợ kế là Con - gái của bà Tú Ba ở xã Võ Liệt, sinh 1 nữ.
+ Con trai thứ 4 Nguyễn Sĩ Sủng; Húy..., làm Lý Trường của thôn cho nên có hiệu lý Trứ, cưới vợ là Con gái của ông phó quát Tộc Nguyễn Duy ở thôn Xuân Bảng, bà sinh hạ 3 trai - 2 gái: Trưởng Nam Sĩ Trứ, Thứ Nam Sĩ Tụy, thứ thứ Nam Sĩ Câu.
+ Trưởng nữ (của Sĩ phùng) Nguyễn Thị....; có chồng là cử nhân Bùi Văn Hòa - Huấn Đạo Hồi Hưu ở xã Thanh Thủy, Sinh 1 trai - 1 gái
+ Thứ Nữ Nguyễn Thị Tiêu, có chồng Nguyễn Liễn là Tú tài ở xã Võ Liệt, sinh hạ trai, gái nối dòng.
+ Nữ Thứ 3: Nguyễn Thị Bảy, có chồng người cùng thôn Là con trai thứ 4 của Hàn Lâm Nguyễn Văn Đình: tên Nguyễn Võ Trạch, Sinh trai gái nối dòng.
+ Nữ Thứ 4 Nguyễn Thị Đeo; Có chồng là con trai của ông Cai Định ở xã Thượng Thọ tên Nguyễn Phùng Định, sinh trai gái nối dòng.
- Ông Tổng Giáo Tĩnh húy Bửu (Bối) - Nguyễn Sĩ Liễn, là con trai thứ của Tú Tài Nguyễn Sĩ Khâm, Thọ 69 tuổi, sinh hạ 5 trai - 1 gái: Mệnh trưởng, Nhàn thứ yểu, Thảnh thứ thứ, Hoàn thứ thứ, Mỹ út
Bà Tổng Giáo Tĩnh húy....; là con gái của tộc Nguyễn Hữu xã Võ Liệt, thọ ngoài 70 tuổi.
Sinh hạ: trước sinh 1 con gái có chồng người Tộc Bùi tên Đồ Tĩnh là con trai Trưởng của bà Đồ Thanh ở thôn Xuân Bảng.
+ Trưởng nam Nguyễn Sĩ Mệnh
+ Thứ nam Nguyễn Sĩ Thảnh.
+ Thứ tam nam Nguyễn Sĩ Hoàn
+ thứ quý Nam Nguyễn Sĩ Mỹ.
- Ông Ngũ húy Nguyễn Sĩ Hợp, là con trai út của Tú tài Nguyễn Sĩ Khâm.
- Bà Ngũ húy Nguyễn Thị ...., là con gái trưởng của cố Ngũ tộc Nguyễn Duy Xuân Bảng.
Sinh hạ: 1 Trai - 3 gái.
+ Con Trai Nguyễn Sĩ Bảo, Cưới vợ người xã Võ Liệt,
Sinh hạ 3 con trai: Trưởng tên Thủ chết yểu; thứ: Sĩ....; thứ: Sĩ….
8, Đời thứ 8 theo can Xuân chi nhận
- Ông Nhường hiệu Nguyễn Sĩ Hòa; húy: Thái, là con trai trưởng của Tú tài Nguyễn Sĩ Xuân; Sinh 1 trai
- Bà Nhường húy Nguyễn Thị....; là con gái út của quan viên phụ Nguyễn Đình Tích Tộc Nguyễn Đình ở thôn Văn Giai là em gái của Tú Tài Nguyễn Đình Thân - làm Tri Huyện tại Huyện Tri Châu.
Sình hạ: 2 gái -1 trai
+ Con trai Nguyễn Sĩ Lương, hiệu Đồ Lương; cưới vợ là con gái trưởng của ông Quế trong cùng thôn.
+ con gái có chồng là Võ Nhường, là con trai Thứ của Tú Tài Thể trong thôn.
+ con gái có chồng tên Nguyễn Nhơ Đắc, người thôn Xuân Dương.
- Ông Kiên hiệu Nguyễn Sĩ Thuyên, húy Tung; Là con trai thứ của Tú Tài Nguyễn Sĩ Xuân,
- Bà Kiên húy Nguyễn Thị ...., là con gái của Cố Tổng Khôn tộc Nguyễn Đình ở Văn Giai.
Sinh hạ 3 Trai - 1 gái
+ Trưởng Nam Nguyễn Sĩ Kiên húy Thụy; Cưới Vợ Là con gái của ông Phương - Tộc Nguyễn Nhơn xuân Dương.
+ Thứ Nam Nguyễn Sĩ Nghiêm húy Ngữ, cưới vợ là con gái của Cố Hoán Tộc Nguyễn Nhơn thôn Xuân Dương.
+ Con gái Nguyễn Thị…, có chồng tên Đỗ Thái là con trai của cố Định ở Xuân Dương; Nay hiệu mụ Lài.
- Ông Vơn huý Vẹn, là con trai út của Tú tài Nguyễn Sĩ Xuân, cưới vợ sanh 1 con trai: Sĩ ưu; sĩ ưu cưới vợ là con gáo của cố Bá Tăng ở xuân Bảng.
- Ông Đối húy Hoạch - Nguyễn Sĩ Duộng, là con nuôi của. Tú tài Nguyễn Sĩ Xuân, Nay 80 tuổi.
- Bà Đối Nguyễn Thị; là con gái của ông Chung tộc Nguyễn Phùng ở thôn Thượng Thọ
Sinh ha 3 trai - 3 gái: Trưởng Nguyễn Sĩ Đối, thứ Nguyễn Sĩ Đáp, thứ Nguyễn Sĩ Cường.
8, Đời thứ 8 theo cố Nhơn chi nhận
- Ông Chưởng húy Nguyễn Sĩ Minh là con của Cố Nhơn, Thọ 61 tuổi.
- Bà Chưởng là con gái của cố Cai Trừng tộc Phạm xã Quảng Xá, huý phạm thị... Thọ ngoài 80 tuổi.
Sinh hạ 3 con trai
+ Trưởng Nguyễn Sĩ Xướng, cưới vợ Nguyễn Thị... là con gái Tộc Nguyễn Văn Xuân Bảng; sinh 1 con trai Sĩ Xênh.
+ Thứ Nguyễn Sĩ Đàn, cưới vợ là con gái Tộc Châu ở Kỳ La, Sinh 4 con trai.
+ Thứ thứ Nguyễn Sĩ Bồi, cưới vợ là con gái ông Sơ Tộc Nguyễn Trọng cùng thôn.
- Ông Khương; húy Nguyễn Sĩ Uy; là con trai thứ của Cố Nhơn; do bà thứ thất sinh, thọ ngoài 80 tuổi.
- Bà Khương, húy....; là người xã Tràng Các, Nay ông bà song thọ.
Sinh hạ 5 con trai-3 con gái đều thành gia thất.
+ Trưởng Nguyễn Sĩ Khương
+ Thứ 2 NGuyễn Sĩ Thành
+ Thứ 3 Nguyễn Sĩ Thịnh
+ Thứ 4 Nguyễn Sĩ Tĩnh
+ Thứ 5 Nguyễn Sĩ Sãi.
- Ông Trưởng húy Nguyễn Sĩ Chí; là con trai út của cố Nhơn, Thọ 60 tuổi.
- Bà Trưởng húy..., Người xã Xuân Hồ, sinh hạ 3 trai - 2 gái, Thiếp húy....; người xã Xuân Bảng. Sinh hạ 1 trai 1 gái
Sinh hạ 3 trai-3 gái: Nguyễn Sĩ Lượng, Nguyễn Sĩ Sủng, Nguyễn Sĩ Quảng.
8, Đời thứ 8 chỉ cố Chung.
- Ông Lành húy Nguyễn Sĩ Hiển, là con trai trưởng của Cố Chung, Thọ 71 tuổi.
- Bà Lành húy....; Là con gái của Cố Tú Lượng Tộc Bùi thôn Xuân Bảng, là em gái của cố Quản Lượng, Thọ 70 tuổi; Sinh hạ 4 gái không trai.
- Ông Liêm húy Nguyễn Sỹ Hậu; là con trai thứ của Cố Chung, Thọ ngoài 70 tuổi - Vẫn còn
- Bà Liêm húy Phan Thị…. là con gái Tộc Phan Tràng Các. Sinh hạ: 4 trai còn 3 - 3 gái
+ Trưởng Nguyễn Sĩ Liêm, cưới vợ là con gái của ông Biện sức Tộc Nguyễn Phùng thôn Thượng Thọ, sinh 4 trai - 2 gái.
+ Thứ 2 Nguyễn Sĩ Khai, cưới vợ người thôn Thượng Thọ
+ Thứ 3 Nguyễn Sỹ Ngơng; Cưới vợ là con gái của ông Cai Giám cùng thôn.
- Ông Lương húy Nguyễn Sĩ Lương; là con trai thứ của Cố Chung do bà thứ Thiếp sở sinh nên là thứ 3.
-Vợ húy Phan Thị Đệ là con gái của Cố Xoắn trong. Cùng thôn, sinh hạ 1 nam - 2 nữ.
+ Con trai Nguyễn Sĩ Nhu.
- Ông Văn húy Nguyễn Sĩ Văn, là con trai của cố Chung do bà Thứ Thiếp sở sinh nên là con thứ 4.
-Vợ húy Nguyễn Thị Bá, là con gái của cố Cấu, cùng thôn, sinh hạ 1 Nam -1 nữ.
+ con trai Nguyễn Sĩ Bân.
- Ông Chất húy Nguyễn Sĩ Chất, là con trai của cố Chung do bà thứ Thiếp sở sinh nên là thứ 5.
- Vợ húy Nguyễn Thị Thời (Thìn); là con gái của cố Hoành trong cùng Thôn, Sình hạ 3 trai - 1 gái
+ Trưởng Sĩ Cẩn (Cởn)
+ Thứ Sĩ Cảng.
+ Thứ thứ Sĩ Câu (Dởn)
8, Đời thứ 8 chỉ của cố Sùng (Sòng)
- Ông Hài húy Nguyễn Sĩ Khoát; là con trưởng của Cố Sùng, Thọ ngoài 70 tuổi,
- Vợ là con gái của cố Thoa; tộc Nguyễn Trọng trong thôn, Sinh 1 trai - 1 gái
Thiếp là con gái của ông Đội Tám - người tộc Võ trong thôn, Sinh hạ 2 trai - 1 gái.
Sinh hạ: 3 trai - 2 gái
+ Trưởng Nguyễn Sĩ Trí, cưới vợ là con gái của ông Biện Phát người Tộc phan trong thôn, sinh 2 nam - 2 nữ.
+ Thứ Nguyễn Sĩ Thứ, có vợ người tộc Nguyễn Trọng trong cùng thôn, Sinh hạ 1 trat.
+ Thứ thứ Nguyễn Sĩ Đương, Cưới vợ người Thanh chương.
- Ông Xan húy Nguyễn Sĩ Đạt, là con trai thứ của cố Sùng, trước theo sở học - Đi lính giữ chức Ngũ Trưởng, sau về hưu theo học nghề thuốc, thọ ngoài 70 tuổi.
- Vợ Bùi Thị…., người Tộc Bùi Xuân Bảng.
Sình hạ 2 trái - 2 gái
+ Trưởng Nguyễn Sĩ Xan, cưới vợ là con gái thứ của ông Biện Sức Tộc Nguyễn Phùng thôn Thượng Thọ, Sinh hạ gái Trai.
+ Thứ Nguyễn Sĩ Chuyên; cưới vợ là con gái của Bùi Ý ở Xuân Bảng.
8, Đời thứ 8 chi cố Khôn; Theo cố Thùng chi nhận.
- Ông Khôn húy Nguyễn Sĩ Dật; là con trai trường của cố Khôn - húy Nguyễn Sĩ Quảng, 55 tuổi mất.
- Vợ húy Nguyễn Thị Ư, là con gái trưởng của cố Trú Phòng người Tộc Võ trong thôn, Thọ 88 tuổi.
Sinh hạ
+ Con trai 2 Nguyên Sĩ Xán; hiệu Phó lập; thọ 70 tuổi.
+ vợ là còn gái của cố Lương Tộc Nguyễn trong thôn,
Sinh hạ 3 trai -gái
- Ông Trung Huý Nguyễn Sĩ Chẩn, là con trai thứ của cố Khôn huý Sĩ Quảng.
-Vợ hiệu bà Trung, là con gái tộc Bùi thôn Xuân Bảng. chết trẻ phạp tự. Sình hạ 1 trai Nguyễn Sĩ Trung
2 gái đều thành gia thất.
+ Trưởng Nữ Nguyễn Thị Thụy, có chồng hiệu Thư Viện, là con trai trưởng của Cố Viện tộc Nguyễn Trọng cùng thôn.
+ Thứ nữ Nguyễn Thị Bình, có chồng hiệu Thông huyện Sài là con trưởng của cố Sài tộc Nguyễn Trọng thôn Xuân Dương.
8, Đời thứ 8: Chi có Miến - Theo chi nhận từ cố Thùng.
- ông Luyến húy Nguyễn Sĩ Bảng, con trưởng của cố Miến
- Vợ húy Nguyễn Thị... là con gái của cố Luyến ở Xuân Bảng, nay thọ ngoài 60 tuổi.
Sinh hạ 3 trai - 2 gái
+ Trưởng Nguyễn Sĩ Luyến, có vợ sinh 1 con trai sĩ Chiếu, Sĩ Luyến chết trẻ, vợ có chồng khác.
+ Thứ Nguyễn Sĩ Cẩn, cưới vợ là con gái ông Nghĩa tộc Nguyễn cùng thôn.
+ Thứ 3 Nguyễn Sĩ Lục
+ Trưởng Nữ Nguyễn Thị Đẹo, có chồng tên xã Quy Tộc Nguyễn Trọng cùng thôn, sinh được 2 con trai, xã Quy chết sớm.
+ Thứ Nữ: Nguyễn Thị Bốn, có chồng tên xã THẢN; là con trai thứ của cố Lượng cùng thôn.
- Ông Toại huý Nguyễn Sĩ Toại là con trai thứ 5 của cố Miến.
- Vợ Nguyễn Thị ….; là con gái của ông Toại Đóa Tộc Nguyễn Trọng cùng thôn, sĩ Toại chết trẻ, vợ có chồng khác.
Sình hạ 1 trai 1 gái
+ Nguyễn Sĩ Tụy (trai), + Nguyễn Thị Hai (gái).
- Ông Thái huý Nguyễn Sĩ Thái, là con trai thứ 4 của cố Miến.
– Vợ Nguyễn Thị …; là con gái của ông Duẫn Tộc Nguyễn cùng thôm
Sinh ha 2 trai - 1 gái
+ Trưởng Nguyễn Sĩ Niên.
+ Thứ Nguyễn Sĩ Thuận
+ Nữ Nguyễn Thị Hòa
8, Đời thứ 8 chi cố Trợ Theo chỉ nhận từ trên chi cố Dụng.
- Ông Trợ hiệu Nguyễn Sĩ Tản huý Trâm, là con trai trường của cố Trợ huý Gián, thọ ngoài 80 tuổi.
- Vợ Nguyễn thị ...; là con gái tộc Nguyên Nhơn Xuân Dương. Sinh ha 2 trai -1 gái
+ Trưởng Nguyễn Sĩ Trợ, cưới vợ là con gái của cố Công cùng thôn, đi lính nhân chức Ngũ Trưởng. Sinh hạ 4 trai - 1 gái.
+ Thứ nam Nguyễn Sĩ Thung.
+ Con gái Nguyễn thị ..., có chồng là con trai của quyền Ba.
- Ông Các huý Nguyễn Sĩ Trưởng, là con trai thứ. của cố Trợ huý Gián, thọ 70 tuổi,
- Vợ Nguyễn thị; là con gái của Đội trưởng cố Nhất Đạt; người Tộc Nguyễn cùng thôn, hiệu mụ Các.
Sinh hạ 1 Trai 1 gái
+ Trai Nguyễn Sĩ Các
+ Gái Nguyễn Thị... có chồng là con trai của cố Tác cùng thôn.
- Ông Nhã húy Nguyễn Sĩ Nhàn, là con trai thứ 3 của Cố Trợ - Sĩ Gián, thọ 67 tuổi
- Vợ Nguyễn Thị...; hiệu mụ Nhã, là con gái của cố Tộc Nguyễn Trọng cùng Thôn, Nay thọ ngoài 70 tuổi, vẫn còn.
Sinh ha 2 trai - 3 gái
+ Trưởng Nam Nguyễn Sĩ Nhã, cưới vợ người Xuân Dương,
+ Thứ Nam Nguyễn Sĩ Hoan – chết non -
+ Trường Nữ Nguyễn Thị...; có chồng là con trai của ông Biện Phát – tộc Phan cùng thôn.
+ Thứ Nữ Nguyễn Thị... có chồng là con trai của ông cố Thự tộc Nguyễn cùng thôn.
+ Thứ thứ Nữ Nguyễn thị ...; có chồng là con trai của Ngũ Trưởng Tường - Tộc võ cũng thôn
- Ông Xuyến húy Nguyễn Sĩ Xuyến, là con trai út của Cố Trợ hý Gián, thọ 69 tuổi.
- Vợ Trần Thị Chung; là con gái của cố Trái -Tộc trần cùng thôn.
Sinh hạ 3 trai - 2 gái
+ Trương Nguyễn Sĩ Tấn (Tiến)
+ Thư Nguyễn Sĩ Nghiệm
+ Thứ thứ Nguyễn Sĩ Toán.
+ Trường nữ Nguyên Thị Đệ, có chồng xã Thản-Tộc Nguyễn Trọng cùng thôn.
+ Thứ Nữ Nguyễn thị Bi; có chồng là con trai thứ của cố Quy - Tộc Nguyễn Trọng cùng thôn.
+ Thứ thứ Nữ Nguyễn Thị Út.
8, Đời thứ 8 chi ông Huệ - cố Khải theo chì nhận từ trên cố Ái.
- Ông Huệ húy Nguyễn Sĩ Huệ, là con trai trưởng của ông húy Tráng, là cháu trưởng của cố Ái,
- Vợ húy .... là con gái của cố Hào - Xuân Bảng, Sình hạ con trại Nguyễn Sĩ Mưu, cưới vợ là con gái của cố Nhi – Tộc Nguyễn.
- Ông Hựu Nguyễn Sĩ Hựu, là con trai thứ của ông Huệ húy Tráng, là cháu thứ của cố Ái, đi lính nhận chức Biện lại
Vợ húy...
Sinh hạ 1 con trai tên Xã Phương, Biện Hựa chết sớm, vợ ông có chồng khác.
+ Con trai Nguyễn Sĩ Phương, cưới vợ họ Nguyễn là con gái của cố Công cùng thôn; Hiệu mụ xã Phương. Sinh hạ 2 trai - 2 gái: Trưởng Nguyễn Sĩ Tràng (Chường), thứ Nguyễn Sĩ Cầu (Xang), Nay cha mẹ đều mất.
- Ông Chơn húy Nguyễn Sĩ Khải; là con trai trưởng của cố Khải húy Duẫn, là cháu thứ của cố Ái, Thọ ngoài 70 tuổi, hiệu ông Chơn Định
- Vợ Bùi Thị...., là con gái họ Bùi Xuân Bảng; hiệu bà Chơn Định,
Sinh hạ 2 trai-2 gái
+ Trưởng Nguyễn Sĩ Chơn, nay hiệu Tri Định, có vợ con gái Tộc Nguyễn Phùng thượng thọ, sinh hạ trai-gai.
+ Thứ Nguyễn Sĩ Thực, cưới vợ là con gái Thổ Hào Tổng Thanh chương, sinh hạ trai gái,
+ 1 con gái có chồng là con trai của Đồ Tương cùng thôn, chồng chết bà tái giá làm thiếp cho Trị Vĩnh ở Xuân Dương.
+ 1 con gái có chồng là con trai bà Tráng cùng thôn.
+ 1 con gái có chồng là con trai của ông Hoán Phong cùng thôn.
+ 1 con gái chết non
- Nguyễn Sĩ Lược húy... là con trai thứ của cố Khải húy Duẫn, là cháu thứ của cố Ái
- Vợ Nguyễn Thị ...; là con gái của cố Viện Tộc Nguyễn Trọng cùng thôn.
Sinh hạ 2 trai-3 gái.
+ Trưởng Nguyễn Sĩ Cớt
+ Thứ Nguyễn Sĩ Hướt
+ 1 con con gái có chồng về xuân Dương.
+ 1 con gái
+1 con gái
8, Đời thứ 8 chỉ có Thuật - theo trên cố Hóa Trưởng chỉ nhận.
- Ông Đóa húy Nguyễn Sĩ Tuyển, là con trưởng của cố Thuật húy Sĩ Cả (Cơ), là cháu cố của can Trị, Thọ ngoài 70 tuổi.
- Bà Đoá húy...., là gái đầu lòng của trai trưởng cố Viên Trú phòng - Tộc Nguyễn Võ cùng thôn, thọ ngoài 70 tuổi.
Sinh hạ 4 con trai - thành gia thất 3 người.
+ Trưởng Nam Sĩ Thuật chết non chết
+ Thứ nam Nguyễn Sĩ Đoá, húy...; cưới vợ là con gái ông Hoán – tộc Nguyễn Nhơn Dương, ông được gọi là Trạng thông của bổn xã - Nay có hiệu Thông Đoá thứ nam kế làm trưởng, Sinh hạ 2 trai còn 1 và 1 gái.
+ Trai Thứ 3 Nguyễn Sĩ Quách, cưới vợ là con gái của cố Ý Xuân Bảng; ông làm lý trưởng của thôn, 1 năm sinh hạ được 2 con trai.
+ Trai thứ 4 Nguyễn Sĩ Khoan, cưới vợ người xã Tràng Các, đã sinh 1 trai; Sĩ Khoan chết trẻ..
- Nguyễn Sĩ Chủ huý...; là con trai thứ của cố Thuật, hiệu ông Nữu
- Vợ húy Thị Đau, là con gái của cố Khoá - Xuân Bảng
Sinh hạ 4 trai còn 2 và 1 gái
+ Trưởng Nam Nguyễn Sĩ Nữu, húy...; cưới vợ là on gái cố Kham- Xuân Dương, sinh hạ 3 trai 2 gái: Trưởng Nguyễn Sỹ Kỷ, Thứ Nguyễn Sĩ Kỷ, thứ thứ Nguyễn Sĩ Chức
- Ông Nguyên húy Nguyễn Sĩ Bồi, là con trai út của Cố Thuật, thọ ngoài 60 tuổi.
- Vợ Nguyễn Thị...; là con gái của ông Tú Thể - Tộc Nguyễn võ cùng thôn.
Sinh hạ: 1 nam-2 nữ, Nam: Nguyễn Sĩ Tài
- Ông Đài húy Nguyễn Sĩ Lầu, là con trai của cố Đài Sĩ Lân, thọ ngoài 60 tuổi.
- Vợ Nguyễn Thị..., là con gái Tộc Nguyễn Phúc xuân Dương, là em gái của cố Cai Tuần
Sinh hạ 4 trai còn 3, Nguyễn Sĩ Dạng chết yểu
+ Trưởng Nam Nguyễn Sĩ Đài, cưới vợ là con gái ông Tuần Ơi ở Xuân Dương, hiệu Đài lúc nhỏ theo học chữ, lớn đi lính nhận chức Thư Lại, sinh 1 trai – 4 gái.
+ Thứ nam Nguyễn Sĩ Dãy, rình 4 trai.
+ thứ thứ nam Nguyễn Sĩ Các.
8, Đời thứ 8 chi 2 của cố Thạch, theo chi nhận trên có Đạm.
- Ông Hạ húy Nguyễn Sĩ Từ, là con trưởng của cố Thạch,
- Vợ húy..., là con gái của cố ổn tộc Lê, hiệu mụ... Thọ ngoài 70 tuổi, sinh hạ. 4 con trai:
+ Trưởng Nguyễn Sĩ Hạ, cưới vợ là con gái trưởng của ông Nhược Tín - Tộc Nguyễn Trọng cùng thôn, Hiệu Mụ Hạ, sinh 2 con trai 1 con gái.
+ Thứ Nguyễn Sĩ Thưởng; cưới vợ là con gái của... Sinh 2 con trai -1 con gái.
+ Thứ 3 Nguyễn Sĩ Lộc, cưới vợ sinh 1 con trai tên Bá Lộc, Sĩ Lộc chết trẻ- vợ cải giá.
+ Thứ 4 Nguyễn Sĩ Liên; cưới vợ Nguyễn thị Mong; là con gái của xã MÔN - Tộc Nguyễn Trọng cùng thôn.
- Ông Long húy Nguyễn Sĩ Hạnh, là con trai của Ông Ngũ trưởng Niệm.
- Vợ:
Sinh hạ 2 trai - 2 gái.
+ Trưởng Nam Nguyễn Sĩ Long, húy...; cưới vợ là con gái của cố Thập Hiểu trong thôn, Sinh 1 con trai tên Câu Long.
+ Thứ Nguyễn Sĩ Đởn, húy...; cưới vợ là con gái Châu Điển - Tộc châu cũng thôn, Sinh 2 gái 1 trai.
8, Đời thứ 8 Theo trên chì nhận cố Khuê
- Ông Xan húy Nguyễn Sĩ Niên, là con trưởng của ông Kính, là cháu thứ của cố Khuê, Thọ ngoài 60 tuổi.
Vợ là con gái tộc Nguyễn, là em gái của cố Điền Dư trong thôn, Sình hạ 1 trai ngái.
+ con trai Nguyễn Sĩ Xan
- Ông Đệ Tộ húy..., là con thứ của ông Kính.
- Vợ là con gái của ông Thư Viên người Tộc Nguyễn Trọng cùng thôn, Sinh hạ con trai
+ Nguyễn Sĩ Hựu
Nguyễn Sĩ Tộ nay thừa Tự Từ Đường ông Thư Tùng.
- Nguyễn Sĩ Hồ húy Trọng, là con trai của ông xử, là cháu thứ thứ của cố Khuê.
-Vợ Phan Thị - là con gái của ông Phan Kiểm cùng thôn. Sinh hạ 1 trai - 4 gái
+ Con trai Nguyễn Sĩ Phú.
8, Đời thứ 8 Theo chỉ nhận từ trên ông Cụ.
- Hương Tường Nguyễn Sĩ Dao húy... là con trưởng của ông Nguyễn Sĩ Nguyên (Ngươn), bổn Xã gọi ông là Trạng Hương Tường, Nay thọ ngoài 70 tuổi, chưa có con trai.
-Vợ Bùi thị...; là con gái trưởng của ông Thông Ất – tộc Bùi thôn Xuân Bảng, hiệu Bà Hương Tường Sinh 1 con gái Nguyễn Thị Dương, có chồng là con trai út của cố Lương cùng thôn tên Tri Ân.
-Thiếp...
-Ẩm tử Nguyễn Sĩ Tiết, húy Cựu Khanh tự Trinh - hiệu Trúc Hiên Chủ Nhân, có cha là Nguyễn Sĩ Ấn - phó bảng hàn lâm viện thị Giảng.
Sĩ Tiết sinh năm canh Tuất (1850) - Tháng Tư (Tân Tỵ)- ngày 22 (bính Tuất) - giờ quý Tỵ.
- Phối Phan Thị Nhiên; Là con gái trưởng của Tuần phủ có Trai - họ Phan huyện Thanh chương Xã Võ Liệt, bà sinh năm Kỷ Dậu 1849 - tháng 2 ngày mùng 10 giờ tuất, năm 19 tuổi bà có chồng nhằm năm Định Mẹo tháng 3 (3/1867), cha bà là Phan Sĩ Thục – đỗ Tiến sĩ Tam giáp khoa Kỷ Dậu, ông đã từng thăng tiến đến chức Tham Tri Tuần Phủ sung Chánh Sứ nhà Thanh; hiệu cổ Trai thọ 70 tuổi, Mẹ bà là Hoàng Thị Hượt (Hoạt); là con gái của Cử nhân Sĩ Biền An Đạo Hàm -ở Thanh Chương
Sinh ha 6 trai - 4 gái.
+ Nguyễn Thị Thủ; sinh năm Mậu Thìn 1868, có chồng là Tú tài khoa Quý Mẹo - cử Nhân khoa Bính Ngọ Hồ là con trai út của Lão xã cụ Ấm Hưng Nguyên Đô An thái tổng, hiệu bà cử....
+ Con trai Nguyễn Sĩ Câu - Tảo một.
+ Con gái Nguyễn Thị Cử sinh năm Quý Dậu 1873, có chồng Nguyễn ..., là con trai thứ của cố Trứ tại tổng Thuần Trung - thôn Mỹ Trung, Nay có hiệu mụ Nho Thành đã sinh được 2 trai - 3 gái
+ Con trai Nguyễn Sĩ Giản, sinh năm Bính Tý 1876, ban đầu trúng Tú tài khoa Canh Tý (1900), phối Nguyên Thái Thị Cần, sinh năm Bính Tý 1876; là con gái Trưởng của Nguyễn Thái Du ở tổng Đô Lương Xã Văn Trường.
+ Con trai Nguyễn Sĩ Triện, sinh năm Kỷ Mẹo 1879, cưới vợ Ngyễn thị... ở xã Võ Liệt
+ Con gái Nguyễn Thị Năm, sinh năm Nhâm Ngọ 1882; có chồng là con trai của Tú Tài Trần Tiên Sinh tại xã Hiến Lũng, thôn Thọ Sơn.
+ Con trai Nguyễn Sĩ Quân sinh năm Giáp Thân 1884..
+ Con trai Nguyễn Sĩ Trâm sinh năm Đinh Hợi 1887
+ Con trai Nguyễn Sĩ Lượng, sinh năm Kỷ Sửu 1889.
+ Con gái Nguyễn Thị Chín; sinh năm Quý Tỵ 1893.












































Việt Nam quốc - Nguyên quán Nghệ An,
Hiện Cư Quảng Nam tỉnh - Tam Kỳ thành phố - An Sơn phường - Cà Ban Bến Lở xứ
Tuế thứ năm Quý Mão - tháng 9 ngày tốt 15 - giờ Lành (15-9-2023.).
Cháu nối dõi Đời thứ 11 NGUYỄN SỸ KHƯƠNG, Sao chép Hoán dịch phổ hệ Tộc Nguyễn Sỹ.
phú Trà LƯƠNG NGỌC
phụng bút.