Tuyển tập các bài thơ hay Chào mừng Kỷ niệm 70 năm thành lập xã Thanh Lương
Xin giới thiệu các bài thơ hay do các độc giả mọi miền là những người con quê hương Thanh Lương viết nhân dịp Chào mừng Kỷ niệm 70 năm thành lập xã Thanh Lương (13/3/1954-13/3/2024)
TUYỂN TẬP CÁC BÀI THƠ HAY CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 70 NĂM THÀNH LẬP XÃ THANH LƯƠNG (13/3/1954-13/3/2024)
ĐI TỚI NHỮNG TẦM CAO
"Xô Viết bình minh đỏ
Cách mạng dậy phong trào
Quê hương Xuân - Thanh - Tú
Đi tới những tầm cao"
Sáng tác: Nguyễn Duy Quốc Việt – 1992
----------------------(BÀI SỐ 1) ----------------------
CHA KỂ CON NGHE
Tác giả: Minh Bui (Bùi Xuân Linh) gửi về từ Mỹ.
Không ít lần khi còn thơ, con hỏi :
"Quê là gì mà bố luôn nhớ, luôn thương
Không giống như bao chuyện đời thường,
Bố hăm hở, bố say sưa, như sợ ai tranh kể.
Kể nữa bố ơi, chuyện quê ta con chẳng chán bao giờ"
xxx
Nhưng con ơi! nói sao cho con hiểu hết!
Vì xứ người "quê" có nghĩa lý gì đâu!
Nhưng với bố, QUÊ là tất cả,
Như mạch nguồn cứ chảy mãi không thôi....
Quê là nơi bố sinh ra,
Quê là nơi dõi dòng, tiên tổ
Quê là nơi bà đổ giọt mồ hôi
Cho mầm thóc đâm chồi,
để giọt sữa thơm môi nuôi con khôn lớn
Quê là ánh mắt ông đau đáu, thương xóm nghèo hiu quạnh cháo thay cơm...
Quê là nơi thơm thảo tình người
Tắt lửa, tối đèn, bát chè xanh chia nửa
Tuy nghèo khó nhưng chan chứa nghĩa xóm làng.
xxx
Quê là nơi từng có cây sui, cây quéo
Phấp phới cờ hồng làm hiệu lệnh đuổi xâm lăng
Quê là nơi sáng chiều cha tới lớp
Rộn rã sân trường, khăn quang đỏ tung bay
Tan học về ai thẫn thờ thương nhớ,
Bím tóc dài và đôi mắt đượm màu thu!!!
xxx
Quê ta đó lộng gió chiều bàu Ó
Vùng vẫy thoả thê, diều căng gió tận trời xanh
Bàu là nhân chứng cho bao thế hệ trưởng thành
Đi muôn nẻo làm đẹp thêm hình hài tổ quốc
xxx
Quê là nơi cha chưa kịp trao hò hẹn,
Vội lên đường khi đất nước lâm nguy,
Phút chia tay hăm hở hướng biên thuỳ,
Ai gửi nụ cười, ai chao nghiêng vành nón...
Hai nửa vầng trăng tuy không tròn không vẹn,
Ánh mắt nai theo ai suốt chặng đường dài
Hành trang cha mang theo là trĩu nặng tình thân
Là bát chè xanh, là góc trời, khoảnh rạ,
Hẹn ngày về khi trọn gánh giang san...
Và thật buồn, con ơi buồn vô hạn!
Chiến trường K- cha khóc bạn mãi ko về!!!
xxx
Maxcova, châu Phi hay châu Mỹ
Chẳng đâu bằng quê Nghệ đâu con.
Chén rượu tây đắt tiền chẳng thể nào sánh được,
Vị đậm đà quốc lủi nút là chuối bà Nguơn!
Xúc xích, thịt bò, pho mát americơn,
Làm ta thương hơn vại cà đĩa nhút,
Và đi xa chẳng ai quên giây phút
Bên ngọn lửa hồng sùng sục bánh chưng xanh...
xxx
Con yêu biết ko? Quê cha dừ cũng là quê mẹ đó,
Cô gái Tây Hồ về Bàu Ó mần du
Mấy chục năm rồi "mô, tê, năng, nứa" đã rành đâu
Nhưng làng xóm nói chi, mẹ đều hiểu cả
Giọng quê ngân nga, tiếng Hà thành dịu ngọt,
Làm mặn nồng thêm tình Xứ Nghệ với Tràng An
Để Bàu Ó khiêm nhường bên ngan ngát Hồ Tây !!!
Để mỗi sáng sương mai Hồ Tây thương Bàu Ó
Và tím chiều Bàu Ó nhớ Hồ Tây!!!
xxx
Hãy nhớ con ơi trong thớ thịt đường gân
của cha, của con và của các con con nữa...
Có một phần máu thịt của quê ta
Chan chứa, bao la, thấm đẫm tình người...
Hãy luôn tự hào ta có một miền quê nhé!!!
xxx
Về quê nha con nhẹ bước vào đền lễ tạ tiền nhân!
Và nghiêng mình cám ơn nhân dân vĩ đại!
Gập mình chào trẻ, già, trai, gái!
Đã cho ta ngọt ngào...
...có một...
.... miền Quê !!!
(Houston-Hà Nội- Xóm Chùa xuân 2024)
----------------------(BÀI SỐ 2) ----------------------
BÀU Ó QUÊ TÔI
Tác giả: Phan Tứ.
Lương Yên hai Xã kết đôi
Địa danh như thế răng môi liền kề
Tú viên, Xuân bảng xưa kia
Có thời cũng đã sáp về Xã chung
Chung Xã tên gọi Yên Lương
Bây giờ Bàu Ó là chung hàng vè
Hàng năm đua thuyền say mê
Con Em xa xứ thích về để xem
Trôi qua đã mấy chục năm
Bàu Ó hẹp lại Nhân Dân buồn rầu
Đua thuyền phải nghỉ từ lâu
Nước Bàu vẫn đục thật rầu Người ơi
Hai Xã phải quyết tâm thôi
Dừng ngay lấn đất, và thôi chuồng ràn
Trả lại mặt bằng hai bên
Để Dân hai Xã đua thuyền như xưa
Truyền thống văn hóa thật ưa
Mong rằng hai Xã tiếp đua thuyền rồng
Rồi đây mọi chuyện cảm thông
Tự giác nhường lại thoáng thông quanh bờ
Để Bàu gần được như xưa
Nhân Dân hai Xã thi đua vui lòng
Mọi Người thực sự cảm thông
Biết rằng thiệt đấy, lợi chung nên làm
Nhân Dân hai Xã cảm ơn
Chính quyền các cấp làm nên chuyện này
Mấy dòng xin được tỏ bày
Kính chúc Quý vị mọi Người khỏe vui
Xuân về hoa nở thắm tươi
Xã nhà Ta đã bày mươi năm tròn
Chúc mừng Dân Đảng Thanh Lương
Bảy mươi năm đã nên chương Sử vàng
Toàn Dân theo ánh Sao vàng
Làm cho Đất Mẹ ngày càng đẹp hơn.
----------------------(BÀI SỐ 3) ----------------------
TỰ HÀO HAI TIẾNG THANH LƯƠNG..
Tác giả: Võ Dũng.
Quê hương tôi có cây Đa bến nước
Có họ hàng Hương ước phân minh
Có người dân nhân nghĩa ân tình
Có sông suối Địa linh nhân kiệt
Có tiền hiền muôn đời mải miết
Xây quê hương kiến thiết cộng đồng
Xã quê tôi đất hẹp người đông
Nghèo sản vật nhưng giàu lòng nhân nghĩa
Đất thanh Lương núi chở che bốn phía
Đông Trăm hòn Tây núi Nguộc Đại can
Quán tú Viên sắc chỉ Vua ban
Năm Thành Thái đất đã thành sổ đỏ
Dãy Trường sơn phía Nam còn đó
Luôn chở che bão giật gió Lào
Năm sáu mươi xây đập Trộ ao
Dân trăm họ chung lòng theo hợp tác
Đất nhỏ hẹp khó khăn canh tác
Người nông dân áo bạc sờn vai
Rồi chiến tranh năm tháng kéo dài
Bom Mỹ thả Cầu gang,Thòi lòi Khe bạc
Tuổi trẻ quê ta nghe lời Đảng Bác
Nô nức lên đường trận Mạc xông pha
Góp sức mình xây tổ quốc Sơn Hà
Hơn trăm liệt sĩ trở thành hoa bất tử
Quê hương ta rạng ngời quá khứ
Để hôm nay giàu đẹp vươn mình
Ghi nhớ công lao bao người đã hy sinh
Vì dân tộc vì quê hương xứ sở
Giếng Cồn giếng Cữa ai mà không nhớ
Để hình dung một thuở tắm trần
Nhớ những đêm trăng sáng trong ngần
Lũ con nít ra đây nằm hóng mát
Giếng Chò mạch đi vào câu hát
Hạn càng to nước chảy càng nhiều
Chò lều khoai lang sắn bột Ba triều
Ngô bãi nổi ngọt như lời mẹ hát
Đây Bàu Ó một thời thơ bé
Xem trò bơi mùng ba tết thật vui
Bảy mươi năm bao vất vả ngọt bùi
Ta luôn thấy Thanh lương mình đẹp quá
Lớp người hôm nay không còn vất vả
Xin đừng quên ngày lập xã khai sinh
Hãy luôn biết tự hào hãnh diện
Dù thời gian có bao biến chuyển
Vẫn nhớ công lao người đứng mũi chịu sào
Bao đời Bí thư chủ tịch gian lao
Gắn bó cùng dân đưa xã nhà lớn mạnh
Ngày truyền thống cờ giong trống đánh
Khúc hoan ca Chào đón bảy mươi năm
Thanh Lương đây Sáng đẹp tựa trăng Rằm
Luôn sống mãi cùng quê hương xứ sở.
(Ngày 1- 3 - 2024, viết tặng quê hương tôi Thanh lương xã - Thanh chương huyện - Nghệ An tỉnh.)
----------------------(BÀI SỐ 4) ----------------------
Hướng về nguồn cội.
THANH LƯƠNG 70 NĂM MỘT CHẶNG ĐƯỜNG.
Tác giả: Lương Văn Ngô.
"Quê ta đất rộng người đông.
Phía ngoài có bãi phía trong núi đồi "...
Kí ức xưa, mãi bồi hồi
Thanh lương đất mẹ một thời gian lao
Giờ đây thật đáng tự hào
Điện,đường,trường,trạm như sao sáng ngời
Đồng quê ngô lúa xanh tươi
Nghĩa trang liệt sỹ đời đời vinh danh
Bảy mươi năm đã trưởng thành
Qua bao biến cố lưu danh tên người
Di tích lịch sử rạng ngời
Rất nhiều dòng họ ghi nơi bảng vàng
Từ đồng ruộng đến xóm làng
Mùa nào áo ấy xốn xang dân cày
Có được như ngày hôm nay
Từ trên xuống dưới chung tay một lòng
Nơi xa xin gửi mấy dòng
Vui lây thấy cảnh nhà nông đổi đời...
Di linh 29-2-2024.
NVL
----------------------(BÀI SỐ 5) ----------------------
MỘT VÒNG THANH LƯƠNG
Tác giả: Van Manh Phan.
Xin mời bạn hãy cùng tôi
Thanh Lương quê mẹ dạo chơi một vòng
Thăm xóm ngoài ghé làng trong
Vòng ra bãi Bói tắm dòng Sông Lam
Toàn dân cộng khổ đồng cam
Hăng say học tập, năng làm biếng chơi
Xuân nhàn vui hội trò bơi
Luyện tay chèo vững dòng đời bôn ba
Ta về thăm lại quê ta
Rượu nút lá chuối, dưa cà say mê
Cá đồng rau, dậu hả hê
Dân mình lắm nghệ nhiều nghề điểm qua:
Bờ quen lau trắng ngần hoa
Kết liên thành chổi quét nhà tuyệt thay
Sáng khối óc, khéo bàn tay
Dân mình đổi mới từng ngày tiến lên
Thép gang theo ý Bác rèn
Khi lùi lửa bỏng lần lên đe ghè
Ngụp vào bể nước lạnh se
Thành gươm sắc lẹm đuổi bè giặc gian
Nên hình hữu dụng từ nan
Cha đà khéo chuốt Mẹ đan cũng tài
Giữ đê, sẩy lúa, đựng khoai
Giẻo dai bền chặt giống loài mây tre
Tiết trời ương dở khắt khe
Đêm đông buốt giá, ngày hè nóng ran
Nhiều khô hạn , lắm lũ tràn
Thành thang thuốc quý nuôi gan chí bền
Từ trong khó khổ mà nên
Anh hùng, tài học lưu tên sử vàng
Tên trường, tên xã, tên làng
Ông Sách, cụ Tú...rộn ràng đó đây
Móng nền tiền bối dưng xây
Hậu nhân cũng đã chung tay giữ gìn
Mỗi ngày bồi đắp thêm lên
Thanh Lương trường cửu, vững bền, hòa an
Vinh lên đến điểm Cồn Tran
Miến ngan, thịt chó nồng ran nghĩa tình
Cao hứng muốn nhảy xập xình
Ghé vào quán hát ông Huỳnh, Lâm con
Dùng xuôi choáng ngợp tâm hồn
Nhộn nhịp Thành phố Chợ Cồn Dương Lương
Khai hàng từ buổi mờ sương
Đến khi khuya tối đèn đường sáng soi
Một vòng dạo đã mệt nhoài
Ta vào quỳ dưới tượng đài chấp tay
Tạ ơn liệt sỹ cao dày
Tuổi xuân khép vội ... đất này bình yên
Nay và mai nữa không quên
Giữ gìn, bồi đắp đẹp lên xã nhà!
----------------------(BÀI SỐ 6) ----------------------
QUÊ MÌNH - NGHỀ PHỤ
Tác giả: Duc Phan Van.
Quê mình tên xã Thanh lương
Tây Vinh bốn sáu dẫn đường tới ngay
Bạn ơi hãy đến nơi này
Địa linh nhân kiệt bấy nay danh ngời
Bao đời hiếu học không lơi
Bảng vàng sử tích ngân lời tụng ca
Tình dân hiếu nghĩa thuận hoà
Hiển vinh dòng tộc gần xa tiếng đồn
Nguyễn Duy, Nguyễn Sỹ thơm thôn
Rồi Phan, Trọng, Trí, những luôn sánh cùng
Nguyễn Văn, Nguyễn Hữu ung dung
Làng trên xóm dưới tưng bừng điểm tôn...
Một trong bốn xã xứ Cồn
Nổi danh đói khổ từng luôn tủi phần
Niềm sâu chí dũng chuyên cần
Dân nông nghề phụ đối phen so vầy
Nông nhàn trải nghiệp đó đây
Mộc, đan, buôn bán dựng xây cuộc đời
Người không đi được nơi nơi
Ở quê nào rảnh ngồi chơi chịu nghèo
Bên Hồ máy, búa, đe reo
Làng Rèn bệ thổi phì phèo luyện phôi
Cuốc, cày, liềm, hái, không tồi
Ngọt ngon, sắc lẹm, nước tôi rõ nòi
Ai ngờ về đấy mà coi
Đến mê cả giọng, e đòi dắm chân
Còn thêm bách nghệ xa gần
Tiếp lên Làng Chổi kề lân xóm Chùa
Đồng Tâm, Đồng Lực tên xưa
Làm Lươn, chổi Đót, đâu thừa thời gian
Cờ lau Bộ Lĩnh binh dàn
Dẹp yên loạn xứ cho dân được nhờ
Hoa Lư Đinh Đế ngần thơ
Bông về xóm 4, tẻ cờ, buộc phoi
Đêm đêm cột, chặt, dăm bòn
Nối xương, vấn cán, dài trơn Chổi thành
Giúp người nhà sạch ngon canh
Trẻ, già, trai, gái, những giành quét luôn
Dạo quanh xóm cận chân Cồn
Thấy nan phơi trắng đường thôn, lối vào
Đồng Minh, Yên Tập dõi ao
Đêm khuya nêm gõ ngọt ngào rủ rê
Thi nhau hơn được tính mê
Gầy, đan, léo, vấn, đủ bề ganh đua
Lận, vành, nức, dát, nêm, lùa
Dần, tràng, thúng, mủng, rổ thưa, rổ dày
Mẹt, nia, dóng, sảo, kiềng đây
Treo, bồ, mủng, trác, sọt...ngầy tiếng choa
Trăm khoanh đủ mánh con cà
Quanh năm suốt tháng "trẻ' ca... ngại ngùng
Vô miền sơn cước đồi thung
Ngắm vườn trái trĩu đỗi mừng cho dân
Đằm an mát mẻ trong ngần
Cây tươi con mập rõ phần thu cao
Thêm nghề Ong Mật ngọt ngào
Rượu chè pha uống ...ôi chao tưng bừng ...
Tuy nghèo trí tuệ rành ưng
Đến mùa thi cử chưa từng thua đâu
Học hành theo chí len đầu
Nghèo sao cũng mặc đua trau chữ hiền
Trống dong Chiêng dóng bao miền
Tú viên, Xuân bảng, Kẻ Trằm lẫy thơm
Bây giờ đã đủ miếng cơm
Vẫn say Đan lát, Chổi, Đe ươm nghề
Nặng tình, say nghĩa, yêu quê
Dẫu xa muôn dặm buổi về những ao...
Nhanh chân đến Hội Xuân nào
Bảy mươi năm ấy...đỗi sao...lẫy lừng
Mau về tắm cuộc vui chung
Để Duyên quê bén thổi bùng ái nhân....
----------------------(BÀI SỐ 7) ----------------------
QUÊ HƯƠNG TÔI
Tác giả: Vân Võ
Quê hương tôi một miền quê bình dị
Bàu Ó, Chợ Cồn ... đất mẹ Thanh Lương
Dẫu ai xa lòng vẫn mãi vấn vương
Xóm Bãi, xóm Chùa, Tú Viên, bãi Nổi ...
Những trưa hè gió nồm nam lộng thổi
Lũy tre làng kẽo kẹt tiếng võng đưa
Nghe thân thương như nhịp thở ngàn xưa
Mãi dặt dìu chẳng phai màu năm.tháng .
Ruộng đồng mướt xanh dọc ngang mương máng
Khi mùa về cây lúa trĩu nặng bông
Nhớ bàn tay ai khuya sớm gieo trồng
Để những mùa vàng bội thu lúa hát .
Bãi mía nương ngô dạt dào bát ngát
Cây trái theo mùa kết nụ đơm hoa
Dòng Lam xanh như lòng mẹ bao la
Phù sa tháng ngày miệt mài chuyên chở.
Cầu Trằm hiên ngang một thời bão tố
Mặc bom thù vẫn liền mạch giao thông
Chiến tranh đi qua cầu lại vươn mình
Nối nhịp yêu thương đôi bờ nhung nhớ !
Tháng ba về, dịu dàng như hơi thở
Hương bưởi hương chanh ngan ngát đường làng
Màu nắng tươi hồng thôn xóm sang trang
Bình minh quê tôi đón chào ngày mới.
----------------------(BÀI SỐ 8) ----------------------
ĐẸP LẮM QUÊ HƯƠNG
Tác giả: Phan Tứ
Quê Hương Tôi có Bàu Ó kề bên
Có dòng Sông Lam chưa bao giờ ngừng chảy
Có rừng cây ngăn dòng sông lỡ bãi
Bên LÀNG XANH thêm phong cảnh hữu tình
Đẹp vô cùng lúc sáng dậy Bình minh
Con chim nhỏ chuyền cành, líu lo cất tiếng hót
ĐƯỜNG KIỆT, CẦU HỜ Người xe tấp nập
Mùa Xuân về bãi xanh mướt ngô non
Bầy Cò bay thẳng cánh cứ dập dờn
Đàn Em nhỏ đến Trường ríu ran theo nhịp bước
Những ngôi Trường hai tầng khang trang thật đẹp
Đường bê tông xen rải nhựa khắp nơi
Bàu Ó kề bên gần trở lại như xưa rồi
Hàng cây cảnh ven bờ ra chồi non lộc biếc
Thỏa mãn lòng Dân bấy lâu mong ước
Lương Yên Ta lại tiếp bước đua thuyền
Quê Hương Mình đang trỗi dậy - Thần Tiên....
Đi qua Cồn Đông thăm Đài Liệt Sĩ...
Ở giữa Làng có nhiều NHÀ THỜ Họ Phan, Họ Sỹ
Họ Ngô,Họ Công, Họ Trọng, Họ Bùi
Họ Văn, Họ Trí, Họ Võ, Họ Duy
Họ Trần, Họ Hồ, Họ Chu và bao nhiêu Họ khác
Rất trang nghiêm có Rồng chầu và nhiều Hạc
NHÀ THỜ nào cũng ngan ngát hương thơm..
Đảng bộ cùng Dân đang đổi mới Quê Hương
Đường đi đó đây đang nâng cấp dần lên rất đẹp
NGHĨA TRANG LIỆT SĨ nơi tri ân những tên Người bất diệt
Hương Hồn các Anh tỏa thơm ngát ngàn đời
Đi vào phía trong có Trạm xá,qua Cầu Trằm những đồi núi xanh tươi
Xí nghiệp Cồn Đông đang gồng mình cho sản xuất
Hàng năm cho ra lò bao nhiêu là Gạch
Phía trong xưa kia thường gọi Kẻ Trằm
Phát triển rừng vàng qua bao tháng năm
Nay kết Xã gọi Xóm Thôn thân mật
Trên sườn núi đồi rừng cây xanh tươi bát ngát
Xen lẫn nhiều nhà chăm chút nuôi Ong
Mật lấy ra thật ngọt lịm và thơm
Làm kinh tế Rừng thời nay rất giỏi
Thật tuyệt vời Quê Hương đang đổi mới
Cũng một phần nhờ chính sách của trên
Và của Người Dân chăm chỉ,chuyên cần
Mong mỏi Xã nhà tiến nhanh, vững chãi
Cho Quê Hương mình thu hoạch nhiều hoa trái
Để Nhân Dân thêm hạnh phúc phồn vinh
Kính chúc mọi Người vui khỏe bình an
Đồng chúc mừng Thanh lương bảy mươi năm thành lập....
----------------------(BÀI SỐ 9) ----------------------
TỪ MINH TIẾN ĐẾN THANH LƯƠNG
Tác giả: Nguyễn Công Lục
Tuổi già vui khỏe yêu đời
Nhớ bao nhiêu chuyện cuộc đời đã qua
Có rất nhiều chuyện năm xưa
Giờ đây ôn lại vẫn chưa muộn màng
Năm tư ngày ấy rõ ràng
Minh tiến một xã chia thành bốn Thanh
Thanh Dương rồi đến Thanh lương
Thanh Khai xã cuối Thanh Yên liền kề
Bốn xã đều ở Thôn quê
Người Dân nhiệt huyết tràn trề yêu thương
Cùng chung một huyện Thanh chương
Cùng ăn dưa nhút, cà tương rất nhiều
Theo Đảng làm hết mọi điều
Sống rất chăm chỉ và yêu cuộc đời
Đất chật nên phải di dời
Nông trang lập trại nửa dời đi xa
Nam Hưng quê mới lập ra
Dần dà Ta đã vượt qua đói nghèo
Một thời sau đó gieo neo
Những vùng thấp trũng biết bao khổ nàn
Nước lụt vào suốt tràn lan
Cấp trên lại phải giúp Dân chuyển nhà
Lúc đầu chẳng muốn đi ra
Sống quen cái chỗ Quê nhà thân thương
Đảng gọi phải quyết lên đường
Di Dân vào núi Phượng hoàng, Đồng Me
Cuối cùng Dân cũng nhất tề
Di Dân chuyển chộ Đồng Me khe dài
Nhắc lên tên xóm nhớ hoài
Quý viên,Bình phú, xóm ngoài Mỹ trung
Chùa thượng Chùa hạ, Tam đồng
Đồng tâm, Đồng lực, Bình dương, Đồng vời
Đồng minh, Yên tập lâu rồi
Cùng Nam Bắc tiến, tuyệt vời Cồn đông
Nhân dân tất cả đồng lòng
Theo lời Đảng gọi không còn đói ăn
Dần dà đã bớt khó khăn
Dân tình no ấm càng thêm yêu đời
Điện, đường, trường, trạm tuyệt vời
Quê hương đổi mới, cuộc đời an vui
Bảy mươi năm đã tới nơi
Kỷ niệm thành lập ra đời Thanh lương
Chúc mừng quê mẹ yêu thương
Từ nơi Tôi ở Lâm đồng xa xôi
Gửi tới tất cả mọi Người
Lời chúc sức khỏe, vui tươi an lành.
----------------------(BÀI SỐ 10) ----------------------
THANH LƯƠNG
QUÊ EM
Tác giả: Vân Võ
Thanh Lương quê em đó
Mướt xanh đồng ngọn ló
Dòng Lam nhẹ nhàng trôi
Trải bao thuở đầy vơi
Vẫn dịu dàng êm ả.
Bầu trời xanh màu lá
Cây trái trĩu cành xuân
Giọt nắng nào lung linh
Như mắt em ngày ấy .
Về quê mình anh thấy
Nhà cao tầng khang trang
Cây xanh vươn thẳng hàng
Ngói đỏ ngời nắng mới .
Yêu quê mình biết mấy
Con đường làng uốn quang
Vườn ai tỏa hương chanh
Nghe nồng nàn trong gió
Ai đi xa mô đó
Có nhớ về quê mình
Lưu giữ mãi bóng hình
Dáng mẹ ta gồng gánh.
Những đêm trăng vàng sánh
Xôn xao bến nước quê
Oi ả những trưa hè
Nước chè xanh mời gọi .
Thân thương sao giọng nói
Mô tê rứa răng hầy
Mồ hôi rơi luống cày
Lắng đọng thành hạt ngọc
Trải bao mùa khó nhọc
Đồng kết trái đơm bông
Ánh nắng mai tươi hồng
Thanh Lương ơi bừng sáng !
----------------------(BÀI SỐ 11) ----------------------
MỜI EM VỀ HỘI
Tác giả: Duc Phan Van
Mời em về với Hội
Nốt thể thăm quê nhà
Ngắm bảy mươi năm qua
Những bao điều đổi mới
Trong thơ anh tả gợi
Đâu đã hết điều hay
Bao nhiêu chỗ phiêu bày
Buổi thơ ta từng nhởi
Nơi Quê ngần mong đợi
Được đón cháu con xa
Tình khơi dậy mặn mà
Nghĩa đằm sâu khôn xiết
Giấy đã mời muôn miệt
Lời nhắn nhủ bao la
Quê trang hoàng bấy ngã
Về vui thoả nhé em
Về đi sẽ được xem
Bóng đá, chuyền đủ cả
Văn nghệ rộn lời ca
Trò bơi ngày xưa...nữa
Xoài rợp đường bung sữa
Sấu nhú lộc đơm hoa
Lúa con gái nõn nà
Đậu, cà, khoai toả nhánh
Cải ngồng nơi Làng Xanh
Trỗ vàng khung bãi Sậy
Bù đang mùa sai trấy
Ngọn dài mơn mởn xanh
Về đây đi với anh
Vô đồng Me, động Vả
Dọc, Ba triều xa xa
Lối Vần Cơm, đồng Mỏ
Ôn kỳ ta cắt cỏ
Nhớ bữa gánh phân leo
Nước giếng nguồn trong lẻo
Lá Chua nhèm...khao O...
Những bữa bứt củi khô
Sợ mưa chiều đổ lá
Thấy Móc đen.. hối hả
Bứt để tối về cho
Bến Son tắm trâu bò
Cây đa to còn đó
Nhớ bữa lội lặn mò
Trai mồng to béo ịch
Cầu Trằm thời bom địch
Nay cầu cứng rộng to
Không còn lo trượt ngã
Xe thẳng tiến em à
Bến Hà không còn Đò
Lối qua nhờ Cầu Rộ
Chỗ bãi Cơi ngày đó
Làng du lịch Xanh mê
Còn... còn nhiêu bộn bề
Anh kê nào có xuể
Còn lại để giành trau
Đợi em về...song tấu...
----------------------(BÀI SỐ 12) ----------------------
.....
Tác giả: ...
----------------------(BÀI SỐ 13) ----------------------
......
Tác giả: ...