Nguyễn Sỹ Chấn (1784 - 1844) gọi là Can Cụ, tính tình ôn nghị, thích đọc sách, làu kinh sử, tinh thông y thuật, địa lý, thường xem bệnh cứu người nhưng không lấy bốc thuốc làm nghề, chỉ lấy việc dạy học làm vui, hòa mục với họ hàng, nghiêm nghị với gia đình.
Theo gia phả chép năm 1996 (do ông Nguyễn Sỹ Mãi thực hiện):
Con trai út của Can Trị làm chi út, là Quan viên phụ, húy là Vấn, tự là Nguyễn Sỹ Chấn, gọi là ông cụ. Sinh năm Giáp Thìn (giờ ngọ ngày 20/6), mất ngày 5/10 Giáp Thìn, thọ 61 tuổi. Mộ cải tang tại núi thôi ngôi thôn ta, giờ mồng 5 tháng 10.
Quan viên mẫu húy là Nguyễn Sỹ Duyên, gọi là bà cụ, con gái họ Nguyễn Đình thôn văn Giai, có cha là Hiệu, sinh đời Lê Nguyễn đình Xán, húy là Bỉnh, mẹ là em gái cử nhân Nguyễn Đình Mai, chị tú tài Nguyễn Đình Chí, sinh năm Nhâm Tý, mất năm Giáp Thìn ngày 07/10, thọ 53 tuổi.
Thụy viết: “tiền quan viên thụ đăng lão nhiêu chỉ thụ tổng hội điển ước Nguyễn đệ ngũ lang tự nhi ngọc thụy ôn nghĩ tiên linh. Tiền quan viên mẫu đăng lão nhiêu chủ thụ tổng hội điển ước Nguyễn Công Chính thất Nguyễn Đình Thị hạng nhất hiệu trang thuận tiên linh”.
Ông Nguyễn Sỹ Chấn tính tình ôn nghị, thích đọc sách, hiểu nhiều kinh sử, lại tinh thông y thuật, địa lý, thường coi bệnh cứu người nhưng không lấy bốc thuốc làm nghề, chỉ lấy việc dạy con cái học hành làm vui, hòa mục với họ hàng, nghiêm nghị với gia đình. Ông luôn tâm niệm rằng chọn thầy học cho con thì chọn người có văn học, đạo đức mới cho con theo học. Bà cụ thì đức tính cần kiệm. Gia nghiệp hơi khá lên, con trai đọc sách, con gái dệt giành, trong nhà luôn luôn êm ả nền nếp. Con học hành thi đậu từng chiêm bao hai câu thơ, tỉnh dậy ghi ngay rằng: “Trồng đậu lại được đậu, con cháu dài lâu mặc áo nhà ma ban” ghi đầu quyển sách thuốc, chữ vẫn còn. Năm Quý Mão, tiên khảo trúng hương giải, trong nhà an khang. Năm Giáp Thìn, trúng Phó bảng hội thi, người trong họ đến mừng, ông vẫn điềm nhiên ung dung nói rằng: Đậu đạt từ lâu vẫn chưa nhận áo mũ trâm hốt. Về nhà, trong lòng vẫn có điều chưa mãn nguyện.
Khi tiên khảo đi lễ mới tháng ba. Rồi ông bà theo nhau qua đời. Bây giờ ông cụ 61 tuổi, bà cụ 53 tuổi.
Ông bà sinh hạ 6 con trai (thọ 3) và 5 con gái thành gia thất, sống thọ. Các con trai gồm: Khoát (mất sớm), Huỳnh, Hoàng, Sầm (mất sớm), Sạn, Trình (mất sớm).
Các con trai là:
+ Con trai đầu húy là Sỹ Khoát, mất sớm. Giỗ ngày 26/4.
+ Con trai thứ 2 húy là Huỳnh, tự là Nguyễn Sỹ Nguyên.
+ Con trai thứ ba húy là Hoàng, tự là Nguyễn Sỹ Ấn.
+ Con trai thứ 4 húy là Sầm, tự là Nguyễn Sỹ Thường. Nhỏ đi học, chưa lấy vợ đã mất. Giỗ ngày mồng 7 tháng 5.
+ Con trai thứ 5 húy là Sạn, tự là Nguyễn Sỹ Lãng, sau đổi là Nguyễn Thúc Hoằng.
+ Con trai thứ 6 húy là Trình, tự là Nguyễn Sỹ Lâm. Đi học, có đi thi. Chưa lấy vợ thì mất. Mộ cải táng ở phía trước phía dưới mộ ông cụ. Giổ ngày mồng 8 tháng 8.
Các con gái là:
+ Con gái Nguyễn Thị Ái, mất sớm, giỗ ngày 14 tháng 5.
+ Con gái thứ 2 húy là Nguyễn Thị Bích, em Nguyễn Sỹ Nguyên, Sỹ Ấn, chị Sỹ Lãng. Lấy Nguyễn Văn Đỉnh – tú tài hàn lâm điểu bạ, con trai thứ hai của quan trú phòng thôn ta, gọi là bà cố Hàn. Cả hai vợ chồng đều thọ. Ông Hàn thọ 92, giỗ ngày mồng 3 tháng 10. Bà Hàn thọ 88, giỗ ngày 13 tháng 3. Ông bà sinh được 4 con trai là Tốn, Phong, Ich, Trạch và ba con gái đều gia thất con cháu đông đủ.
+ Con gái thứ 3 húy là Nguyễn Thị Oánh, em bà Hàn, chị Sỹ Lãng, lấy Bùi Trọng Thanh, hương đồ con thứ hai cố Bình người Xuân Bảng, gọi là bà Đồ Thanh. Sinh con trai đầu tên là Tĩnh nên còn gọi là bà đồ Tĩnh, thọ 70 tuổi. Sinh 3 con trai, đầu tiên là Tĩnh, thứ 2 là Biện Thương, thứ 3 là Cai Năm. Con trai đầu đông cháu chắt.
+ Con gái thứ tư là Nguyễn Thị Phu, em bà đồ Tĩnh, chị của Nguyễn Sỹ Lãng, lấy tú tài Phan Văn Từ xã Võ Liệt – Thanh Chương. Sinh con gái đầu là Đoan nên gọi là bà Tú Đoan. Sau sinh một trai là Phan Văn Đạo, lại gọi là bà Tú Đạo. Anh tú tài Phan Văn Từ là Phan Văn Nghệ cũng trúng tú tài, em là Phan Văn Phổ cũng trúng tú tài. Phan Văn Đạo đi học, đi thi, sinh 2 con trai, đều theo học.
+ Con gái thứ 5 húy là Nguyễn Thị Sử, mất sớm, giỗ ngày 15 tháng 2.